Thứ Tư, 11 tháng 9, 2013

Bệnh ghẻ là một bệnh ngoài  da  ngứa và rất dễ lây lan, nó gây ra bởi sự phá hoại của các ký sinh trùng Sarcoptes scabiei. Đây là loại ký sinh trùng tám chân nhỏ (trái ngược với côn trùng, trong đó có sáu chân).
 
 

 
 
Chúng rất nhỏ, chỉ 1/3 mm dài, và chui sâu vào da gây ra ngứa dữ dội, và có xu hướng tồi tệ hơn vào ban đêm. Những con ve ghẻ tấn công con người thường là ghẻ cái và 0,3 dài mm-0.4 mm, con đực là khoảng một nửa kích thước này. Con ve ghẻ có thể được nhìn thấy bằng kính lúp hoặc kính hiển vi. Những con ve ghẻ chỉ có thể bò mà không thể bay hoặc nhảy. Chúng không thể hoạt động được ở nhiệt độ dưới 20 độ C, mặc dù chúng có thể tồn tại trong thời gian dài ở những nhiệt độ đó.
 
 
Dịch ghẻ xảy ra trên toàn thế giới và rất phổ biến. Người ta ước tính rằng trên toàn thế giới, khoảng 300 triệu trường hợp xảy ra mỗi năm. Bệnh ghẻ đã được con người ghi trong hơn 2.500 năm qua. Bệnh ghẻ đã được ghi nhận trong  các vụ xảy ra dịch bệnh trong các nhà dưỡng lão, bệnh viện, cơ sở chăm sóc dài hạn, và các tổ chức khác. Tại Mỹ, những người vô gia cư thường xuyên bị mắc bệnh nhưng với các quần thể khác của tất cả các nhóm kinh tế xã hội căn bệnh này chỉ xảy ra từng giai đoạn.
 
- See more at: http://phongkhamnamchau.com/benh-ghe/benh-ghe-la-gi.html#sthash.42nuZLl9.dpuf
Khác với bệnh ghẻ ngứa do con ghẻ, bệnh ghẻ phỏng là bệnh nhiễm trùng da do vi khuẩn hình cầu gây ra.
 
Ghẻ phỏng (GP) là bệnh rất dễ lây, không chỉ lây từ vùng da này đến vùng da khác trên cùng một người bệnh mà còn lây từ người nọ sang người kia. Bệnh GP thường gặp ở trẻ em và xuất hiện nhiều trong mùa nóng bức có khí hậu ẩm.
 
Nguồn lây nhiễm
 
Vi khuẩn gây bệnh GP có từ nhiều nguồn khác nhau. Móng tay dài và dơ dính bám cáu ghét đất là nơi cho vi khuẩn trú ngụ và từ đó bệnh theo các vết cào gây xây xát ngoài da. Chất nhầy từ mũi họng bị viêm chảy ra là ổ lây bệnh GP ở quanh mũi và miệng của bé. Các vật nuôi trong nhà như chó, mèo cũng là nguồn lây nhiễm cho trẻ. ở nhà trẻ, trường học là môi trường dễ lây từ trẻ bị bệnh sang trẻ lành.
 

 
Triệu chứng và biến chứng
 
Dấu hiệu đầu tiên của GP là vết đỏ trên da, sau đó từ vết này nổi lên mụn nước và bóng nước như bị phỏng. Bóng nước nhanh chóng bị vỡ và khô lại thành mày dày có màu vàng. Mày GP dễ tróc khi trẻ cào gãi. Chất dịch của bóng nước có chứa nhiều vi khuẩn cho nên chất dịch này sẽ lây lan và tạo thành nốt GP mới ở vùng da lân cận do gãi, do cào cấu hoặc lây qua trẻ khác do dây dính trực tiếp chất dịch này.
 
GP là bệnh nhiễm trùng nhẹ trên bề mặt da và khi khỏi không để lại sẹo. Tuy nhiên ở những bé bị GP tái đi tái lại nhiều lần và nhất là GP ở vùng da quanh mũi và miệng, một số bé có thể bị biến chứng viêm cầu thận cấp, là bệnh nặng hơn rất nhiều so với bệnh nguyên thủy (GP).
 
Phòng bệnh và điều trị
 
- Giữ vệ sinh da cho bé, sử dụng các loại xà bông diệt khuẩn thông dụng để phòng ngừa GP.
 
- Cắt ngắn móng tay, chân cho bé thường xuyên để loại bỏ ổ chứa vi khuẩn.
 
- Khi bé bị viêm mũi, họng thì cần đưa bé đi điều trị sớm để ngăn chặn lây nhiễm ra da, nhất là phòng ngừa biến chứng viêm cầu thận cấp.
 
- Trong các trường mẫu giáo, nhà trẻ, trường tiểu học, khi phát hiện có trẻ bị GP, các thầy cô cần báo cho cha mẹ bé để đưa bé đi khám bệnh, phòng lây bệnh cho các học sinh khác.
 
- Mặc dù GP là loại nhiễm trùng da nhẹ có thể điều trị dễ dàng bằng thuốc bôi có chứa chất kháng sinh hoặc thuốc uống kết hợp, nhưng các bậc cha mẹ cũng cần đưa trẻ đến khám để được chỉ định thuốc điều trị cho đúng cách, vì da của trẻ con rất dễ hấp thu thuốc qua đường bôi cho nên bôi thuốc quá liều, bôi thuốc sai quy định có thể gây hại cho bé.
- See more at: http://phongkhamnamchau.com/benh-ghe/benh-ghe-phong-o-tre-em.html#sthash.dooaLqSA.dpuf
Có lẽ giờ đây, khi nhắc tới bệnh ghẻ, nhiều người, nhất là những người sống ở thành phố sẽ gạt phăng vì nghĩ rằng đây là bệnh chỉ gặp ở những nơi có điều kiện dinh dưỡng và vệ sinh kém. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng, ngay cả những thành phố lớn, bệnh ghẻ vẫn tồn tại và nhiều khi bị chẩn đoán nhầm. Do đó mà có những gia đình bị ghẻ cả nhà trong suốt 2 năm trời vẫn chưa được chẩn đoán và điều trị đúng.
 
Cái ghẻ xâm nhập qua da gây bệnh
 
Căn nguyên gây bệnh ghẻ là một loại ký sinh trùng có tên sarcoptes scabiei, có nơi còn gọi là con mạt ngứa (itch mite). Con cái có kích thước từ 0.3-0.5mm. Cái ghẻ xâm nhập vào đường biểu bì da, đào hầm và đẻ trứng. Chúng đẻ từ 2-3 trứng/ngày và đẻ liên tục trong 4-6 tuần liền. Trứng nở thành ấu trùng và phát triển thành con trưởng thành chỉ trong vòng 3-4 ngày. Lây bệnh ghẻ là do tiếp xúc trực tiếp với người bị ghẻ, nằm chung giường, mặc chung quần áo, dùng chung khăn tắm. Cái ghẻ có thể sống ngoài cơ thể được 2-3 ngày, điều này rất có ý nghĩa trong việc tư vấn điều trị.
 

 
Ngứa ghẻ có thể nhầm lẫn với eczema
 
Người bị nhiễm ký sinh trùng ghẻ lần đầu tiên trong vòng 2 tuần đầu hoàn toàn chưa có biểu hiện ngứa do mới bị ghẻ xâm nhập nên chưa có sự phản ứng lại (hay là sự nhạy cảm). Việc chẩn đoán ghẻ rất dễ, ai đó từng bị ghẻ đều có thể nhận ra được, nhưng đôi khi cũng bị nhầm lẫn tại các phòng khám chuyên khoa vì ghẻ lâu ngày tạo thành eczema hóa hoặc bội nhiễm hoặc ghẻ vảy. Dựa vào triệu chứng bệnh ngứa nhiều về đêm, ngứa tăng khi trời nóng, khi lao động, chơi thể thao. Mụn nước ở vị trí đặc hiệu, kẽ ngón tay, lằn chỉ cổ tay, nếp gấp bàn tay, vùng thắt lưng, cạp quần, bẹn,  đùi, sinh dục, nách, núm vú ở phụ nữ. Điều đặc biệt là ghẻ không thấy ở mặt, đầu và 1/3 trên lưng. Đối với trẻ em dưới 2 tuổi, ghẻ có thể bị toàn thân. Có thể dùng kính lúp soi bắt được cái ghẻ nằm ở cuối đường hầm trong da.
 
Chữa ghẻ bằng cả đông y và tây y
 
Đông y thường dùng lá cây ba gạc, lá đào đun nước tắm, nhựa cây máu chó bôi tại chỗ. Tắm nước muối, tắm biển… Tây y có thể dùng một trong những loại thuốc sau: D.E.P.(dietyl phtalat); benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate); eurax (crotamintan); permethrin cream 5% (elimite); lindane (gamma–benzen hexachlorid, kwell).
 
Ngoài ra, cần đặc biệt chú ý, khi điều trị ghẻ, phải điều trị cho cả những người sống chung trong gia đình hoặc trong cùng đơn vị, ký túc xá sinh viên, tẩy uế quần áo, ga gối. Trong mùa hè, phơi quần, áo, ga, gối 3-4 nắng. Quần áo giặt để 1 tuần sau mặc lại. Do bệnh ghẻ có thể xuất hiện ở bất kỳ địa phương nào, kể cả nông thôn hay thành thị nên nếu nghi ngờ mắc bệnh, không nên chủ quan để bệnh kéo dài dai dẳng.
- See more at: http://phongkhamnamchau.com/benh-ghe/cho-coi-thuong-benh-ghe.html#sthash.xEOWoFpN.dpuf

Thứ Ba, 10 tháng 9, 2013

GĐ&XH – Bệnh thuỷ đậu đã và đang xảy ra ở miền Bắc, gặp nhiều ở trẻ em và thiếu niên. Nguyên nhân, triệu chứng, cách phòng ngừa và hướng điều trị căn bệnh này như sau:
Nguyên nhân
- Virus Varicellae zoter (VZV) có trong nước bọt của những trẻ bị bệnh lây truyền qua đường hô hấp, ho hoặc  bệnh Zona… là nguồn lây  bệnh thuỷ đậu cho các trẻ chưa bị bệnh thuỷ đậu.
- Những người mắc các bệnh bạch cầu, ung thư,  không có gama globulin hay dùng thuốc corticoid, bệnh nhiễm khuẩn mãn tính, cơ thể suy kiệt, người dùng thuốc ức chế miễn dịch, người bị chấn thương các dây thần kinh… cũng dễ lây bệnh.

Triệu chứng
Thời gian ủ bệnh từ  7 – 20 ngày.
Trên da từ mặt, trán, cổ, thân, lưng và tứ chi nổi các mụn nước tròn hay bầu dục, to bằng hạt đậu xanh. Bên trong bọng nước là dịch màu trắng trong, nếu đục là do bội nhiễm. Mụn nước, bọng nước mọc không theo thứ tự, có thể mọc trong các niêm mạc hậu môn, cơ quan sinh dục ngoài.
Những mụn nước, bọng nước tự vỡ, dịch chảy ra trong, dẻo và đóng vảy khô. Vảy  bong không để lại sẹo trên da. Sau đó trẻ lại sức, hết mệt, đòi ăn và muốn ăn nhiều.
Trẻ có thể sốt là do bội nhiễm, cần đưa trẻ đến bệnh viện thăm khám và điều trị theo nguyên nhân nhiễm trùng huyết.
Phòng ngừa
- Tiêm phòng thuỷ đậu cho trẻ, không bỏ sót
- Phát hiện và cách ly 21 ngày, không cho trẻ đến trường học
- Không tiếp xúc với trẻ bị thuỷ đậu.
Điều trị
- Bôi Xanh metylen trên các mụn nước chưa vỡ hay đã vỡ bằng dung dịch sát khuẩn, hồ Tetracyclin.
- Uống  thuốc kháng sinh histamin tổng hợp như vitamin C, sirô phenergan 3% 10ml chia làm 2 lần, ngày và tối. Dùng thêm Vitamin B1, các thuốc an thần siro bromur canxi.
- Vệ sinh da sạch sẽ chống bội nhiễm và nâng cao thể trạng cho trẻ bằng ăn nhiều sữa, nhiều chất đạm và các loại quả như cam, chanh, na, nhãn, xoài…
(ANTĐ) – Bệnh zona thần kinh mà chúng ta vẫn thường gọi là giời leo do virus Herpes Zoster có ác tính với tế bào thần kinh gây ra. Bình thường thì zona là bệnh không nguy hiểm. Nhưng người bệnh chịu một sự đau đớn ở vùng da bị bệnh liên tục có khi tới cả tháng hoặc cả năm. Zona thần kinh tiêu hủy tế bào thần kinh và làm rối loạn chức năng dẫn truyền tín hiệu từ ngoài da. Có bệnh nhân tả nhiều loại đau xảy ra kế tiếp hoặc cùng một lúc. Bệnh có thể thấy ở mọi lứa tuổi nhưng thường hay thấy vào sau tuổi 50.

Bệnh có thể tái phát nhất là nếu ta dùng các dược phẩm làm giảm tính miễn dịch của cơ thể. Đặc biệt với những người có tình trạng sức khỏe kém, bị suy giảm miễn dịch, sức đề kháng yếu, nhất là những người già bị mắc bệnh mãn tính như tiểu đường, huyết áp và ở thanh niên bị nhiễm HIV/AIDS. Lúc khởi bệnh, bệnh nhân cảm thấy hơi đau, rát ở một vùng da kèm mệt mỏi, uể oải, ớn sốt. Sau đó nổi nhiều mụn nước to nhỏ không đều thành chùm trên nền da thường hay đỏ hồng, tiến triển và tập trung phân bổ theo đường dây thần kinh ngoại biên. Đặc biệt là chỉ ở một bên cơ thể, không khi nào lan qua phía bên đối diện. Ví dụ: một bên mắt, một bên mũi hay một bên lưng…

Bệnh zona mắt do một loại virus cùng loại với virus gây bệnh thủy đậu, nhạy cảm với thần kinh, và có thể gây nhiều loại biến chứng ở mắt (với tỷ lệ 50-70%). Các biến chứng này có thể xảy ra sớm hoặc muộn, cấp tính hoặc mãn tính và có thể tái phát. Khi zona tấn công giây thần kinh tam thoa ở mặt, mụn nước sẽ mọc ra trên mặt, trong miệng và mắt. Nếu mụn mọc gần mắt, cần đi bác sĩ nhãn khoa ngay vì khi mắt mà bị nhiễm thì thị giác bị mất luôn.

Có trường hợp, bệnh tấn công cả tai, mắt khiến tai trong đau, cảm giác trên mặt tê liệt, vị giác giảm, mắt mờ, mỏi. Có khá nhiều biến chứng có thể gặp phải là để lại sẹo ở mi mắt, dẫn đến hiện tượng khô mắt, hoại tử võng mạc, bệnh thần kinh thị lực do hiện tượng thiếu máu, liệt cơ vận nhãn, liệt dây thần kinh mắt, một số trong các biến chứng này có tiềm năng gây mù… Ngoài ra, còn có thể gặp tai biến mạch máu não, viêm màng não, đặc biệt ở người có tuổi có thể tái phát đau thần kinh sau khi khỏi bệnh.

Theo các Tiến sỹ Ngô Hồng Phong chuyên khoa da liễu, khi có triệu chứng bệnh, bệnh nhân cần phải đến các bệnh viện chuyên khoa điều trị càng sớm càng tốt vì làm ngắn thời gian bệnh và có thể làm nhẹ bớt các cơn đau. Lý tưởng nhất là trong 72 giờ đầu, có thể ngăn chặn sự tàn phá của dây thần kinh và giảm thiểu đau. Nếu như phát hiện muộn, điều trị không đúng cách sẽ có khả năng dẫn đến những biến chứng, mà trong đó, bệnh đau sau zona trên vùng da (thường gặp ở người già) tồn tại rất dai dẳng, dữ dội và rất khó điều trị, phải nằm điều trị từ 1 đến 3 tháng, thậm chí cả năm. Trong thời gian dưỡng bệnh, bệnh nhân không làm việc nặng, nghỉ ngơi thoải mái và tăng cường uống Vitamin C để tăng sức đề kháng của cơ thể.

Các bác sĩ sẽ cho dùng các thuốc kháng virus bằng đường bôi hoặc uống theo chỉ định. Bệnh cũng có thể tự khỏi tùy theo sức đề kháng của mỗi người. Những bệnh nhân bị zona của nhánh I thần kinh sinh ba điển hình có các triệu chứng đau nửa bên mặt, và các tổn thương ở trán, vùng quanh nhãn cầu và mũi. Nếu không trị liệu kháng virus, khoảng chừng 50% những bệnh nhân này sẽ có các biến chứng về mắt như đã nói ở trên và những bệnh nhân này cần dùng liệu pháp kháng virus đường uống làm giảm các biến chứng mắt muộn từ khoảng 50% xuống còn từ 20-30%. Đặc biệt, những bệnh nhân bị zona mắt nên được một bác sĩ nhãn khoa có kinh nghiệm về xử trí các bệnh lý giác mạc thăm khám và đánh giá.

Tuy không nguy hiểm những những biến chứng về mắt nếu gặp phải zona mắt thì nên sử dụng các thuốc như  acyclovir (zovirax) 800mg mỗi 4 giờ x 7-10 ngày; ganciclovir, Famiclovir, (Famvir) 500mg/mỗi 8 giờ x 7 ngày; Valacyclovir (Valtrex) 500mg/ngày x 7ngày có thể làm bớt đau. Các thuốc này tương đối an toàn, nhưng khá đắt. Dùng thêm các thuốc chống viêm và thuốc chống đau.

Có nhiều bác sĩ dùng corticosteroid để làm giảm đau, nhưng kết quả còn nhiều tranh luận. Có tác giả cho rằng, dùng Corticosteroid có thể làm vết thương mau lành và giảm nỗi khó khăn của người bệnh. Đôi khi phải dùng tới cả thuốc chống trầm cảm như Ealavil…
Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng
(714) 531-7930
nguyentranhoang@aol.com

Mục này chỉ nhằm giải đáp các thắc mắc về sức khỏe có tính cách tổng quát. Cho các vấn đề cụ thể, chi tiết của từng bệnh nhân, xin liên lạc với bác sĩ để được thăm khám trực tiếp.
Nhiều thông tin thiết thực và bổ ích khác về sức khỏe cũng được phát trên đài New Saigon Radio 1480AM ở vùng Orange County, California, vào mỗi sáng Chủ Nhật từ 8 giờ 15 đến 8 giờ 45 trong chương trình Câu Chuyện Sức Khỏe Sáng Chủ Nhật và trên đài VHN TV được phát khắp Hoa Kỳ, vào Thứ Bảy, và Chủ Nhật, trong chương trình Sức Khỏe Cộng Ðồng với Bác Sĩ Nguyễn Trần Hoàng.

Bệnh giang mai

Các biểu hiện của bệnh giang mai

Hỏi:
Theo tôi biết thì bị giang mai chỉ cần chích một mũi thuốc bi là xong, có đúng không? Nếu trị dễ dàng như vậy, tại sao lại có nhiều người bị các biến chứng nguy hiểm của giang mai như vậy? Tôi có một người quen nghe nói chỉ vì giang mai mà điên điên khùng khùng, một người khác bị mất mấy đứa con cũng vì bệnh giang mai.
Tôi nghe nói rằng bệnh giang mai có thể làm cho bị liệt, mất cảm giác, lú lẫn, bị khùng. Có đúng là bệnh này có thể gây ra các triệu chứng ghê gớm như vậy không? Và có thể chữa trị cho khỏi được không.
Em bị một vết loét ở dương vật chẳng có đau đớn gì cả. Sau đó một thời gian khoảng một hai tháng gì đó, nó biến mất. Ngoài ra em chẳng có triệu chứng gì cả. Như vậy có đáng lo không và nếu không có triệu chứng thì có cần chữa trị gì không?
Em nghe nói mẹ bị giang mai có thể sinh ra con bị tật nguyền, không biết có thật đúng như vậy không? Con của người bị giang mai có thể bị tật nguyền như thế nào? Có cách gì phòng ngừa việc này xảy ra cho con không?
Nghe nói bị giang mai thì dễ bị siđa hơn, có đúng như vậy không?
Làm sao biết được một người bị giang mai? Vì nghe nói có những giai đoạn mà giang mai không có triệu chứng gì cả. Làm sao biết để phòng và chữa?

Ðáp:

Các biểu hiện của bệnh giang mai giai đoạn sớm (tiếp theo)

Như đã trình bày hai kỳ trước, giang mai giai đoạn sớm (early syphilis) bao gồm các thời kỳ tiên phát, thời kỳ thứ hai, và giai đoạn đầu của thời kỳ tiềm ẩn. Giai đoạn sớm này thường xảy ra trong năm đầu sau khi bị nhiễm bệnh, sự tái phát của thời kỳ thứ hai cũng có thể xảy ra sau năm đầu ở những bệnh nhân không được chữa trị.
Sự phát triển của giang mai sớm bắt đầu khi một người chưa bao giờ bị giang mai bị nhiễm bệnh này. Việc nhiễm bệnh thường qua các tiếp xúc trực tiếp, thường là trong khi quan hệ tính dục, với một sang thương (lesion) có chứa vi trùng. Vi trùng giang mai cũng có thể lan truyền khi hôn, sờ mó vào các sang thương đang có vi trùng (active lesions) ở môi, trong miệng, ở vú hay bộ phận sinh dục. Việc bị lây giang mai qua việc truyền máu rất hiếm gặp, vì trước khi truyền, máu luôn luôn được kiểm tra vi trùng giang mai, và vi trùng giang mai cũng không thể sống sót quá 24 đến 48 tiếng đồng hồ trong điều kiện máu được lưu trữ như hiện nay.


Bên cạnh các triệu chứng ở da và niêm mạc như đã kể kỳ trước, giang mai giai đoạn hai cũng gây ra nhiều triệu chứng khác ở toàn cơ thể.

Các triệu chứng của toàn hệ thống cơ thể có thể bao gồm sốt, nhức đầu, kiệt sức, uể oải, chán ăn, đau họng, đau rêm mình mẩy, sụt cân. Các triệu chứng này có thể là biểu hiện của phản ứng cơ thể với sự lan tràn của vi trùng giang mai. Và đây thường là nguyên nhân khiến bệnh nhân đi thăm bác sĩ.

Nổi hạch khắp cơ thể, thường xảy ra ở giai đoạn hai, có thể thấy ở vùng bẹn (háng), nách, phía sau cổ, vùng đùi. Các hạch này thường hơi đau khi sờ nắn, cứng, đàn hồi.
Hói đầu cũng có thể gặp ở giang mai giai đoạn hai, như bị nhậy cắn (moth-eaten). Khi giang mai được chữa trị, hói đầu có thể biến mất.

Các bất thường về thần kinh có thể rất đa dạng. Nó có thể xảy ra ngay từ vài tuần đầu hoặc có khi nhiều năm (có thể đến 25 năm) sau khi bị nhiễm giang mai. Các triệu chứng thần kinh có thể cùng xảy ra một lúc hoặc “gối đầu” lên nhau.

Ngay cả khi giang mai đã xâm nhập và đánh phá hệ thống thần kinh, dù trong thời kỳ sớm hay trễ, bệnh nhân vẫn có thể không có biểu hiện của các triệu chứng. Và khi có triệu chứng, dù không được chữa trị, các triệu chứng này cũng có thể tự biến mất. Ðôi khi các triệu chứng này có thể tái xuất hiện sau vài năm, có khi đến 5 năm sau khi xảy ra lần đầu.
Các biểu hiện của giang mai thần kinh có thể là:

- Viêm màng não do giang mai: có thể có các triệu chứng của viêm màng não cấp tính như sốt, cứng cổ, ói mửa, mê man. Các biến chứng có thể làm cho liệt một số dây thần kinh như thần kinh số tám, ứ nước trong não. Khi tổn thương đến não, nó có thể làm bị liệt nữa người, kinh phong giật (seizure), không thể nói được…
- Viêm mạch máu của não hoặc màng não, có thể gây ra các triệu chứng như bị tai biến mạch máu não. Tùy theo mạch máu nào bị tổn thường và bị tắt nghẽn, các triệu chứng có thể là liệt của các phần khác nhau của cơ thể. Các triệu chứng báo trước có thể là nhức đầu, rối loạn tâm thần, xúc cảm, cũng có thể bị kinh giật.
- Khi bị tổn thương của phần sau cột sống, một biến chứng thần kinh thường gặp của giang mai nếu không được chữa trị được gọi là “ tabes dorsalis”. Bệnh nhân có thể bị tê rần, tê như kiến bò ở vùng bị tổn thương, có những cơn bị nhói như điện giật, bị mất một số cảm giác như cảm giác giúp nhận định vị trí của cơ thể, cảm giác của độ rung (vibration). Bệnh nhân cũng có thể bị teo thần kinh thị giác khiến giảm thị lực, mất khả năng giữ được thăng bằng…
—————————–

Hỏi:
Em nghe nói mẹ bị giang mai có thể sinh ra con bị tật nguyền, không biết có thật đúng như vậy không? Con của người bị giang mai có thể bị tật nguyền như thế nào? Có cách gì phòng ngừa việc này xảy ra cho con không?

Tôi nghe nói rằng bệnh giang mai có thể làm cho bị liệt, mất cảm giác, lú lẫn, bị khùng. Có đúng là bệnh này có thể gây ra các triệu chứng ghê gớm như vậy không? Và có thể chữa trị cho khỏi được không?

Em bị một vết loét ở dương vật chẳng có đau đớn gì cả. Sau đó một thời gian khoảng một hai tháng gì đó, nó biến mất. Ngoài ra em chẳng có triệu chứng gì cả. Như vậy có đáng lo không và nếu không có triệu chứng thì có cần chữa trị gì không?

Nghe nói bị giang mai thì dễ bị siđa hơn, có đúng như vậy không?


Theo tôi biết thì bị giang mai chỉ cần chích một mũi thuốc bi là xong, có đúng không? Nếu trị dễ dàng như vậy, tại sao lại có nhiều người bị các biến chứng nguy hiểm của giang mai như vậy? Tôi có một người quen nghe nói chỉ vì giang mai mà điên điên khùng khùng, một người khác bị mất mấy đứa con cũng vì bệnh giang mai.

Làm sao biết được một người bị giang mai? Vì nghe nói có những giai đoạn mà giang mai không có triệu chứng gì cả. Làm sao biết để phòng và chữa?
Ðáp:

Các biểu hiện của bệnh giang mai trễ

Giang mai trễ là giai đoạn tiếp tục sau giai đoạn giang mai sớm, bao gồm thời kỳ trễ của giang mai tiềm ẩn và giang mai thời kỳ thứ ba (tertiary syphilis). Giang mai tiềm ẩn (latent syphilis) được định nghĩa là tình trạng đã bị nhiễm giang mai nhưng không có triệu chứng, chỉ phát hiện bằng kết quả thử máu, trong khi khám bệnh không thấy gì bất thường cả. Nếu giang mai tiềm ẩn không biết rõ đã kéo dài bao lâu, khi đó nó sẽ được xử lý, điều trị như thời kỳ trễ của giang mai tiềm ẩn.

Giang mai trễ có thể bắt đầu từ năm thứ hai sau khi bị nhiễm bệnh, cũng có thể biểu hiện trễ, đến 25 tới 30 năm sau khi bị nhiễm bệnh. Trong đó, giang mai của hệ thần kinh trung ương thường gặp nhất, khó chẩn đoán và điều trị nhất.

Giang mai giai đoạn ba đặc biệt được biểu hiện bởi các triệu chứng có liên quan đến hệ thần kinh trung ương, hệ tim mạch, da và các mô dưới da.

Sự tiến triển sang giang mai giai đoạn ba xảy ra theo một tỉ lệ chưa được biết rõ lắm. Một số nghiên cứu được thực hiện ở thời kỳ trước khi giang mai được điều trị bằng kháng sinh cho thấy tỉ lệ này có thể cao đến 25- 40% những người bị nhiễm vi trùng giang mai.

Một trong những biểu hiện điển hình của giang mai trễ là các tổn thương “gummatous syphilis”: Những tổn thương có mật độ như những cục gôm (tẩy) hình tròn, hình thể dị dạng, hoặc những vết loét ở da, có thể rất dị dạng. Vào thời Trung Cổ (Middle Ages), vì những biến dạng này mà giang mai đã được gọi là “Great Pox” khi so sánh với các vết rổ nhỏ hơn của “small pox” (đậu mùa, mà những người bị có thể bị những vết rổ không bao giờ lành trên mặt gọi là “rổ huê”). Các tổn thương dạng gôm này cũng có thể xảy ra ở xương và các nội tạng khác như ở miệng, mũi, lưỡi, gan, vân vân. Từ khi người ta biết dùng penicillin để trị giang mai, các tổn thương gôm này đã hiếm gặp hơn nhiều. Trừ khi người bệnh không biết để chữa, hoặc cũng cùng bị nhiễm HIV (SIDA) cùng với giang mai.

Các tổn thương giang mai trễ cũng có thể xảy ra ở hệ tim mạch với các tổn thương ở các động mạch lớn nhất dẫn vào tim như động mạch chủ lên (ascending thoracic aorta) làm cho động mạch có thể phình ra tạo thành các túi phình (aneurysms-như ruột xe đạp bị “bụng bầu”), gây tổn thương ở các van tim. Nó cũng có thể gây tổn thương các động mạch nuôi tim (coronary arteries), làm hẹp hoặc tắt nghẽn các động mạch này. Các tổn thương tim mạch có thể gây đau ngực, khó thở.

Các tổn thương của hệ thần kinh bao gồm não và tủy sống, một phần như đã kể ở giang mai sớm, có thể gây ra liệt, rối loạn trong việc phối hợp sự vận động của cơ thể, mất cảm giác, mù, thay đổi tính tình, suy sụp các hoạt động tâm thần và bất lực (impotence).

Giang mai bẩm sinh

Phụ nữ có thai bị giang mai mà không biết và không được điều trị có thể truyền bệnh sang con. Trường hợp này gọi là giang mai bẩm sinh.

Các biểu hiện có thể rất khác nhau: Con có thể chết ngay từ trong bụng mẹ trong khoảng 25% các trường hợp, hoặc ngay khi vừa mới được sinh ra trong khoảng 25-30% các trường hợp.
Nếu còn sống, con có thể bị nhiều dị tật như bị sưng phù toàn cơ thể và thiếu máu (hydrops fetalis).

Các biểu hiện sớm của giang mai bẩm sinh thường xuất hiện trong vòng khoảng năm tuần đầu sau khi sinh. Ðó có thể là các tổn thương lở loét trên bàn tay, bàn chân, bị sưng gan lách, vàng da, thiếu máu, nghẹt mũi…

Nếu không được chữa trị kịp thời trong vòng ba tháng đầu sau khi sinh, các biểu hiện sớm của giang mai bẩm sinh có thể phát triển thành các dị tật vĩnh viễn như bị ngắn xương hàm, vòm họng bị cao lên quá mức, điếc, sụp xương sống mũi (saddle nose), biến dạng của răng…

—————–

Hỏi:
Làm sao biết được một người bị giang mai? Vì nghe nói có những giai đoạn mà giang mai không có triệu chứng gì cả. Làm sao biết để phòng và chữa?

Em bị một vết loét ở dương vật chẳng có đau đớn gì cả. Sau đó một thời gian khoảng một hai tháng gì đó, nó biến mất. Ngoài ra em chẳng có triệu chứng gì cả. Như vậy có đáng lo không và nếu không có triệu chứng thì có cần chữa trị gì không?

Em nghe nói mẹ bị giang mai có thể sinh ra con bị tật nguyền, không biết có thật đúng như vậy không? Con của người bị giang mai có thể bị tật nguyền như thế nào? Có cách gì phòng ngừa việc này xảy ra cho con không?

Tôi nghe nói rằng bệnh giang mai có thể làm cho bị liệt, mất cảm giác, lú lẫn, bị khùng. Có đúng là bệnh này có thể gây ra các triệu chứng ghê gớm như vậy không? Và có thể chữa trị cho khỏi được không?

Nghe nói bị giang mai thì dễ bị siđa hơn, có đúng như vậy không?

Theo tôi biết thì bị giang mai chỉ cần chích một mũi thuốc bi là xong, có đúng không? Nếu trị dễ dàng như vậy, tại sao lại có nhiều người bị các biến chứng nguy hiểm của giang mai như vậy? Tôi có một người quen nghe nói chỉ vì giang mai mà điên điên khùng khùng, một người khác bị mất mấy đứa con cũng vì bệnh giang mai.


Ðáp:
Chẩn đoán bệnh giang mai
Trong giai đoạn sớm, chẩn đoán bệnh giang mai tương đối phức tạp vì cơ thể chưa tạo ra kháng thể mà vi trùng giang mai lại không thể cấy vào các môi trường nhân tạo (cannot be cultivated in vitro). Cách chẩn đoán tương đối chính xác là lấy vi trùng từ vết loét giang mai (chancre) và coi trên kính hiển vi (darkfield microscopy or fluorescence microscope). Ðiều này chỉ thường chỉ có thể thực hiện được ở các trung tâm chuyên về bệnh hoa liễu.

Phương pháp khác thường sử dụng rộng rãi hơn, nhưng cho giai đoạn 2 trở lên (để cơ thể có đủ thời giờ để tạo ra kháng thể -antibody), là thử kháng thể trong máu. Phương pháp này cũng có thể giúp theo dõi sự đáp ứng của bệnh nhân với điều trị.

Ở các trường hợp giang mai thần kinh, cần phải thử kháng thể vi trùng giang mai trong dịch não tủy (cerebrospinal fluid analysis – bằng cách đâm kim vào tủy sống để lấy dịch não tủy ra).

Cần chú ý là các vết loét ở bộ phận sinh dục có thể do nhiều nguyên nhân gây ra chứ không phải chỉ có bệnh giang mai. Các nguyên nhân này có thể là herpes sinh dục, các loét giống như chancre (săng) giang mai (gọi là chancroid) của các bệnh nhiễm trùng khác, hoặc các loét gây ra do thuốc hoặc các bệnh khác không phải do nhiễm trùng.
Trong các nguyên nhân trên, tương đối thường gặp nhất là herpes sinh dục (genital herpes) và chancroid.

Các vết loét của herpes sinh dục thường là nhiều loét, nông và đau, có thể có bong bóng nước, và thường tái đi tái lại.
Nhắc lại, vết loét của giang mai (chancre) thường không đau, cứng (indurated), và đáy sạch (cleaned based ulcer).
Còn loét của chancroid thường sâu, có mủ, có thể đi kèm với hạch bẹn (háng) đau đớn (có người gọi là “hột xoài”).

Chancre (loét giang mai) cũng có thể xảy ra trong vòm họng hoặc niêm mạc hai bên má ở những trường hợp khẩu dâm. Các vết loét này thường bị lầm lẫn với lở miệng thường gặp do herpes hay do “nóng” (gọi là aphthous ulcers).

Dù vết loét có rõ ràng đến đâu, thì cũng cần các xét nghiệm để khẳng định chẩn đoán trước khi điều trị.

Cần chú ý là bên cạnh việc chẩn đoán giang mai, những người đã bị nhiễm một bệnh hoa liễu nên xét nghiệm để tìm xem mình có nhiễm các bệnh khác hay không. Vì khi đã nhiễm một bệnh thì khả năng cùng nhiễm các bệnh lây qua đường sinh dục khác cũng cao hơn nhiều.

Trong các bệnh hoa liễu khác thì bệnh siđa (HIV-AIDS) là điều cần chú ý đầu tiên. Vì đây là bệnh chết người, và khi đã có loét ở bộ phận sinh dục, thì khả năng bị nhiễm bệnh này sẽ cao hơn rất nhiều.

Những người đã nhiễm HIV rồi bị nhiễm giang mai thì sự tiến triển của giang mai sẽ có thể nhanh hơn, dữ hơn, và thất bại trong điều trị cao hơn vì sức đề kháng của cơ thể đã bị suy yếu.


————-
Hỏi:
Có cách nào để biết sau khi trị, bệnh giang mai có “dứt nọc” hay chưa? Khi trị bệnh giang mai, có cần trị hay thử các bệnh gì khác hay không? Việc trị bệnh giang mai có dễ không? Nếu sợ chích vì nghe nói rất đau và sợ bị sốc pêni rất nguy hiểm, có thuốc uống hay không?
Sau khi “quan hệ” với một người mà nghi là bị giang mai mà không kịp dùng bao cao su phải làm sao? Có cần trị hay không?
Theo tôi biết thì bị giang mai chỉ cần chích một mũi thuốc bi là xong, có đúng không? Nếu trị dễ dàng như vậy, tại sao lại có nhiều người bị các biến chứng nguy hiểm của giang mai như vậy? Tôi có một người quen nghe nói chỉ vì giang mai mà điên điên khùng khùng, một người khác bị mất mấy đứa con cũng vì bệnh giang mai.
Tôi nghe nói rằng bệnh giang mai có thể làm cho bị liệt, mất cảm giác, lú lẫn, bị khùng. Có đúng là bệnh này có thể gây ra các triệu chứng ghê gớm như vậy không? Và có thể chữa trị cho khỏi được không.
Em bị một vết loét ở dương vật chẳng có đau đớn gì cả. Sau đó một thời gian khoảng một hai tháng gì đó, nó biến mất. Ngoài ra em chẳng có triệu chứng gì cả. Như vậy có đáng lo không và nếu không có triệu chứng thì có cần chữa trị gì không?
Nghe nói bị giang mai thì dễ bị siđa hơn, có đúng như vậy không?

Ðáp:

Ðiều trị bệnh giang mai

Cho đến nay, penicillin vẫn là thuốc chính được dùng trong việc điều trị giang mai, mặc dù việc sử dụng này đã bắt đầu từ khoảng hơn năm mươi năm trước. Vì việc sinh sôi của vi trùng giang mai tương đối chậm chạp, các thuốc được sử dụng phải có tác dụng kéo dài (và dĩ nhiên, phải là từ một bác sĩ y khoa để phòng ngừa, theo dõi, điều trị tác dụng phụ, dị ứng nếu xảy ra, và theo dõi đáp ứng với việc điều trị).
Vì không phải lúc nào một lần điều trị cũng thành công trong việc chữa dứt bệnh, các bệnh nhân cần được tái khám và tái xét nghiệm sau sáu và mười hai tháng. Nếu triệu chứng vẫn còn, hoặc thử nghiệm kháng thể không thấy cải thiện, có thể là bệnh đã chưa chữa được khỏi hẳn, hoặc bệnh nhân bị nhiễm bệnh trở lại và cần được chữa trị trở lại. Các bệnh nhân cần được chữa trị trở lại cũng như cần phải được thử nghiệm HIV (siđa), vì việc cùng nhiễm HIV sẽ làm cho tỉ lệ điều trị thất bại tăng cao rất nhiều.
Cho đến nay, theo các hướng dẫn được cập nhật hồi năm 2006 của CDC (Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh của Hoa Kỳ), penicillin vẫn là thuốc rất nhạy với vi trùng giang mai, và các thuốc penicillin có tác dụng kéo dài (long-acting depot penicillin) vẫn tương đối rất thành công trong việc điều trị giang mai sớm lẫn trễ.
Một liều penicillin có tác dụng kéo dài như benzathine penicillin G có thể giúp trị giang mai sớm, và đối với loại trễ hoặc phức tạp hơn, bệnh nhân sẽ phải cần đến ba liều cách nhau một tuần.
Thuốc cần được chích bắp thịt (intramuscular) mà thôi và không được chích tĩnh mạch (intravenous), vì chích tĩnh mạch đã dẫn đến một số trường hợp bị ngưng tim ngưng thở và chết.
Một tác dụng phụ mà nhiều bệnh nhân sợ là chích bắp thịt thuốc này có thể rất là đau. Một tác dụng phụ khác cũng thường được nhắc đến là phản ứng (được đặt tên là) Jarisch-Herxheimer, trong đó bệnh nhân bị sốt và nhức đầu, đau nhức bắp thịt trong vòng 24 tiếng đồng hồ sau khi chích. Phản ứng thường xảy ra khi trị giang mai sớm, và được trị bằng thuốc hạ sốt giảm đau.
Một điều cần chú ý là penicillin cũng là một thuốc thường bị liệt vào nhóm các thuốc thường gây ra dị ứng thuốc, đôi khi rất nguy hiểm. Do đó, cần phải thử dị ứng thuốc và có sẵn thuốc trị dị ứng, sốc thuốc, sẵn sàng khi chích thuốc cho bệnh nhân.
Sau khi chích thuốc, bác sĩ sẽ cần phải kiểm soát sự đáp ứng với điều trị bằng cách theo dõi triệu chứng, và chính xác hơn, là đo lại lượng kháng thể với vi trùng giang mai trong máu, thường là vào tháng thứ sáu và mười hai sau khi chích. Một số bệnh nhân khi thử máu nếu không thấy có đáp ứng tốt (ví dụ như VDRL titers, nếu không giảm xuống ít nhất bốn lần), sẽ được coi là đã bị thất bại trong việc điều trị.
Việc thất bại, có thể là do cơ thể chưa đáp ứng tốt, bị kháng thuốc, và không ít trường hợp, là do bị nhiễm lại. Khi đó, một đợt thuốc ba liều cách nhau một tuần sẽ được cho lại, và bác sĩ sẽ phải kiểm tra xem (các) bạn tình của bệnh nhân đã có được điều trị và không có bệnh hay không. CDC cũng khuyến cáo nên chọc dò và khám nghiệm dịch não tủy của các bệnh nhân này.
Ðối với những bệnh nhân bị dị ứng với penicillin, một số nhóm thuốc khác như tetracyclines, macrolides… (dùng bằng đường uống) sẽ được sử dụng. Tuy nhiên dữ liệu về hiệu quả của các thuốc này không được đầy đủ như với penicillin. Do đó, khi dùng các thuốc này, việc theo dõi đáp ứng với điều trị lại càng cần phải sát sao hơn.
Những người có quan hệ tính dục với bệnh nhân giang mai (qua giao hợp qua âm đạo hay hậu môn hay miệng), nếu chỉ mới trong vòng 90 ngày, có thể thử máu sẽ chưa thấy gì cả. Trong trường hợp này, CDC khuyến cáo nên được điều trị như là đã bị giang mai. Những người đã “quan hệ” với bệnh nhân quá 90 ngày, mà việc theo dõi không rõ ràng, cũng nên được điều trị như đã bị bệnh.
Cần nhắc lại, tất cả các bệnh nhân bị giang mai đều cần được thử nghiệm HIV, nếu âm tính, thì lập lại khoảng 3 tháng sau đó (vì mới nhiễm HIV thử máu có thể chưa thấy kháng thể). Ngược lại, các bệnh nhân HIV cũng đều cần thử nghiệm giang mai.
ANTĐ – Các nhà khoa học Đan Mạch đã phát hiện ra các bệnh chỉ báo mới cho thấy nguy cơ nhiễm HIV.
Mạng lưới Sáng kiến HIV châu Âu cho biết nên liệt kê thêm một số bệnh mới vào danh sách các chỉ báo nguy cơ đối với người bị ghi ngờ nhiễm HIV.

Họ cho biết những người thích quan hệ tình dục ở châu Âu có nguy cơ nhiễm HIV trong thời gian dài song họ vẫn bị chẩn đoán nhầm cho tới khi hệ miễn dịch bắt đầu suy giảm và cơ thể ốm yếu.

Mạng lưới này đã tiến hành một nghiên cứu quốc tế về 8 bệnh mới có thể là chỉ báo về nhiễm HIV chưa được chẩn đoán. Nghiên cứu gồm 3588 bệnh nhân.

Nếu các dấu hiệu chỉ báo là bệnh mụn cóc sinh dục, ung thư hậu môn hoặc viêm gan B, C thì các chuyên gia chăm sóc sức khỏe nên gợi ý bệnh nhân làm xét nghiệm HIV. Việc này nhằm mục đích chẩn đoán và điều trị sớm HIV.

Mạng lưới Sáng kiến HIV châu ÂU nhấn mạnh rằng những chỉ báo này không hoàn toàn đồng nghĩa là bệnh nhân đó nhiễm HIV, song tỷ lệ nhiễm HIV là lớn hơn với 8 bệnh chỉ báo.

Quỹ AIDS Liên hợp quốc ước tính châu Âu có khoảng 2,5 triệu người dương tính với HIV, song tới 900.000 người không biết mình mang virus này. 1/2 số người nhiễm HIV được chẩn đoán rất muộn khi đã ở trong giai đoạn nhiễm HIV mạn tính.

Kết quả nghiên cứu sẽ được trình bày tại Hội nghị HIV quốc tế diễn ra vào ngày 19-20/3/2012.
Theo số liệu thống kê của Ngành Y tế TP.HCM, mỗi năm có hàng ngàn ca bệnh sốt xuất huyết (SXH) nặng phải nhập viện điều trị. Trong năm 2008, riêng BV. Nhi Đồng 1 đã tiếp nhận và điều trị khoảng 700 ca SXH độ III, IV. Thời điểm hiện tại, nơi đây cũng thường xuyên có khoảng 6-10 ca bệnh nặng. BV. Nhi Đồng 2 và BV. Bệnh Nhiệt Đới cũng phát hiện hàng chục ca có dấu hiệu trở nặng mỗi ngày.

Nhập viện khi bệnh trở nặng

Với những biểu hiện ho kèm sốt nhẹ, em N.T.T, 7 tuổi, tại TP.HCM đã được chẩn đoán bị viêm họng. Theo người nhà của bệnh nhân, trước khi chuyển tới BV. Nhi Đồng 1, bé T. có biểu hiện ho, sốt và đã được chẩn đoán là viêm họng khi gia đình đưa em đi khám bác sĩ. Tuy nhiên, theo đơn thuốc viêm họng được cho, em uống 3 ngày vẫn không đỡ bệnh. Bước sang ngày thứ 4, do T. sốt cao nên người nhà vội vã đưa em nhập viện BV. Nhi Đồng 1. Tại đây, T. được thử máu và kết luận bị mắc SXH ngày thứ 4. BS. Lê Bích Liên, Trưởng khoa SXH BV. Nhi Đồng 1 cho biết, rất may cho bệnh nhi này vì nhập viện kịp thời khi em chuẩn bị “vào sốc”. Ngay lập tức, T. đã được điều trị tích cực tại phòng cấp cứu, bệnh nhân hồi phục nhưng thời gian khá dài. Hiện T. đã ra khỏi phòng cấp cứu và chờ được xuất viện.


Tuân thủ việc tái khám khi được chẩn đoán SXH. Ảnh minh họa.
Tuần qua, BV. Nhi Đồng 2 cũng vừa cấp cứu thành công một trường hợp bé trai 5 tuổi tên N.V.A (ở Bình Dương) bị SXH độ IV. Bé A. nhập viện trong tình trạng rất nặng, mạch không bắt được, huyết áp không đo được. Tại Khoa cấp cứu nhiễm, bé được làm thủ thuật chống sốc, bù dịch và hỗ trợ dinh dưỡng, hô hấp. Sau gần một tuần điều trị bé A. mới đỡ bệnh và được cho xuất viện để theo dõi và chăm sóc tại nhà.
BS. Vũ Quang Vinh, Phó Phòng tổng hợp BV. Nhi Đồng 2 cho biết, hiện có 4 ca bệnh nặng đang được điều trị tại BV. Bệnh nhân nhập viện ở ngày thứ 4, thứ 5 gây khó khăn cho công tác điều trị. Báo cáo của Trung tâm Y tế Dự phòng TP.HCM cũng cho thấy, trong 5 ca tử vong do biến chứng SXH từ đầu năm đến nay có 2 ca là trẻ em có độ tuổi 8 tháng và 3 năm tuổi.

Cần cảnh giác và sớm nhận biết dấu hiệu bệnh

Theo BS. Lê Bích Liên, bệnh SXH có nhiều trường hợp bị sốt cao, trở nặng tại nhà mới được đưa tới BV. Tuy nhiên, một số nhập viện sớm cũng vẫn có thể trở nặng theo diễn tiến của bệnh. Vấn đề quan trọng là làm sao phát hiện sớm bệnh và nhận biết được dấu hiệu bệnh trở nặng để đưa trẻ nhập viện kịp thời.

SXH rất dễ bị chẩn đoán nhầm với nhiều bệnh lý siêu vi khác và rất khó phát hiện ngay từ những ngày đầu, vì không có những dấu hiệu đặc hiệu. 90% trẻ dưới 15 tuổi mắc và tỉ lệ nhập viện trong tổng số bệnh nhân SXH chiếm khoảng 20%. Điều khó khăn là không thể biết những trường hợp nào trong số đó sẽ trở nặng nên các BS thường nhấn mạnh việc người nhà phải theo dõi trẻ tại nhà theo hướng dẫn và tuân thủ việc tái khám. Nếu trẻ sốt từ 2 ngày trở lên, uống thuốc không bớt thì phải nghĩ ngay đến nguy cơ đã mắc SXH. Ở ngày thứ 4, thứ 5, gần như 85% dấu hiệu cho thấy bệnh nặng. BS. Liên cho biết, một triệu chứng mà phụ huynh rất dễ chủ quan là việc trẻ ngưng sốt. Thời điểm bệnh trở nặng, trẻ sẽ ngưng sốt nhưng lại lừ đừ, quấy khóc, than đau bụng, nôn ói, tay chân lạnh, tiểu ít… Đặc biệt, khi trẻ xuất huyết chân răng, ói ra máu và đi tiêu phân đen thì phải đưa đến bệnh viện ngay lập tức.

Việc nhập viện đôi khi không căn cứ vào độ III, hay độ IV. BS. Nguyễn Ngô Thị Bạch Tuyết, Khoa Nhiễm, BV. Nhi Đồng 2 cho biết, chỉ định nhập viện là cần thiết với trẻ nhũ nhi mắc SXH ở độ 2 và có những dấu hiệu sốt ly bì, da nổi bông, ói máu hay đau bụng vùng hông phải. Nhất là khi nhà bệnh nhân ở xa đơn vị y tế, sợ tiến triển bệnh không tốt thì chỉ định nhập viện điều trị sớm. Đối với trẻ mắc SXH, những biến chứng do sốt kéo dài, bệnh nhân nhập viện muộn dễ dẫn tới tình trạng sốc kéo dài, gây co giật, suy hô hấp. Khi xuất huyết tiêu hóa nhiều kèm xuất huyết não và tổn thương đa cơ quan (do sốc) rất dễ dẫn đến việc bệnh nhân tử vong.

Ngay cả trên đường vận chuyển, với những bệnh nhân nhà ở xa BV., việc bị sốc cũng là nguy cơ hoàn toàn có thể xảy ra khi mà các nhân viên y tế tại tuyến dưới chưa được tập huấn tốt về kỹ thuật chuyển viện an toàn, BS. Vũ Quang Vinh nhấn mạnh.
Bệnh quai bị do virus gây ra, thường xuất hiện ở trẻ nhỏ, và lây qua đường nước bọt. Tuy nhiên cả người lớn cũng vẫn có khả năng nhiễm bệnh. Dưới dây là các dấu hiệu cảnh báo sớm về bệnh này:

- Tuyến nước bọt ở mang tai sưng lên. Vùng nằm giữa hàm và tai sưng đau.
- Sốt tới 39,4 độ C.
- Đau đầu.
- Mất cảm giác thèm ăn.
- Đau khi nói, nuốt, nhai hoặc uống những đồ uống có tính chất axit như nước cam hoặc nước soda.

Nếu không được điều trị, bệnh có thể gây ra các biến chứng như viêm não và viêm màng não. Quai bị là virus rất dễ lây truyền, nhưng lại có thể được điều trị bằng kháng sinh.

Nếu nghi ngờ một thành viên trong gia đình bị quai bị, hãy đưa họ đến gặp bác sĩ càng sớm càng tốt.

Thứ Hai, 9 tháng 9, 2013

Khi trẻ bị thủy đậu, nên nấu nước đậu xanh (1 lạng đậu nấu với nửa lít nước) cho uống thay nước cho đến khi khỏi bệnh. Có thể thêm ít đường phèn hoặc đường đỏ, hoặc nấu cháo đậu xanh loãng. Các loại đậu đen, đỏ, trắng cũng dùng được.
Các món ăn sau cũng tốt cho bệnh nhân thủy đậu, bạn có thể lựa chọn cho thích hợp khẩu vị của trẻ:

Nước thân cây rạ: Thân cây rạ bỏ lá rơm ngoài 15 g. Nấu lấy nước cho trẻ uống thay nước hằng ngày.

Nước mã thầy, bồ công anh mỗi thứ 15 g, nấu nước uống. Có thể thêm đường.

Cháo rễ lau: Rễ lau tươi 10-20 g, gạo 50 g, hai thứ nấu cùng.


Cháo lá sen: Lá sen tươi 100 g, gạo 100 g, nấu lá sen lấy nước nấu cháo. Thêm ít đường phèn hoặc đường đỏ.

Cháo lá tre: Lá tre tươi 30 g, gạo 100 g. Nấu lá tre khoảng 20 phút lấy nước nấu cháo.

Cháo ý dĩ (hạt bo bo): Hạt bo bo 30 g, nấu cháo với 60 g gạo. Ngày ăn hai lần trong vài ngày.

Cháo rễ lau, sinh địa: Rễ lau 20 g, sinh địa 10 g, thạch cao 10 g, gạo 100 g. Nấu thuốc trước, lấy nước nấu cháo nhừ.

Cháo phục linh: Phục linh 15 g, hoa mai vàng 15 g, gạo tẻ 50 g. Nấu kỹ phục linh với hoa mai vàng lấy nước để nấu cháo. Ăn nóng.

Cháo bách hợp: Bách hợp 10 g, đậu đỏ 20 g, hạnh nhân 6 g (bóc vỏ bỏ mầm), gạo 30 g, nấu cùng cho nhừ. Dùng vào thời kỳ khỏi bệnh.

Các nhà khoa học của Ðại học Utah đã khám phá ra hàng rào chất mới có thể ức chế sự xâm nhập của HIV. Ðây là một khám phá có tiềm năng mở ra một hướng mới cho việc nghiên cứu cũng như phương thức điều trị và phòng chống HIV/AIDS. Kết quả vừa được công bố trên tạp chí Dược học phân tử.


Theo các nhà khoa học này thì họ đã thử nghiệm các chất mới là những chất sát trùng nhưng chúng lại có khả năng chống HIV xâm nhập. Các chất này có cấu trúc là các lectin. Lectin là những chất tồn tại tự nhiên trong tế bào, chúng có thể tương tác và gắn kết với các phân tử đường đặc hiệu trên màng tế bào. Và đương nhiên chúng cũng gắn luôn vào các phân tử đường trên bề mặt HIV làm cho HIV không còn khả năng chạy trốn và cũng không còn khả năng xâm nhập vào tế bào nữa vì chúng bị các lectin bất hoạt.

Các lectin đã được tìm ra từ lâu trong tự nhiên từ thực vật cũng như động vật. Nhưng nay các nhà khoa học có thể tổng hợp thành công các chất này và đã thử nghiệm thấy HIV khó có thể xâm nhập vào tế bào. Ðây là những lectin có cấu trúc chứa nhân benzoboroxole. Dự định trong tương lai các nhà khoa học sẽ chế biến các chất này dưới dạng gel bôi đường sinh dục để tránh lây nhiễm HIV cho phụ nữ.
Các nhà khoa khọc đã phát hiện được cách ngăn chặn virus HIV làm suy giảm hệ miễn dịch. Nghiên cứu này có thể là cơ sở để phát triển một loại vaccine hữu hiệu chống lại căn bệnh thế kỷ AIDS. Trong khi đang nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về virus HIV, một nhóm các nhà khoa học quốc tế đến từ Mỹ và châu Âu đã phát hiện thấy rằng virus HIV không thể phá hủy hệ miễn dịch nếu như cholesterol bị tách ra khỏi màng của virus này.

 Nhóm nghiên cứu, đứng đầu bởi tiến sĩ Adriano Boasso, thuộc trường đại học Hoàng gia London (Anh), đã tiến hành loại bỏ cholesterol khỏi lớp màng bao quanh virus HIV. Kết quả, họ phát hiện thấy rằng virus HIV không thể tấn công làm suy yếu hệ miễn dịch. Chất cholesterol trong lớp màng của virus HIV có tác dụng giúp virus trở nên linh hoạt hơn và cho phép chúng có thể tương tác với một số loại tế bào nhất định. Hiện tại, nhóm nghiên cứu dự định sử dụng phương pháp này để vô hiệu hóa virus HIV và phát triển một loại vaccine chống lại căn bệnh thế kỷ AIDS. Thông thường khi một người bị nhiễm virus HIV, hệ miễn dịch của cơ thể phản ứng ngay lập tức bằng cách lập một hàng rào phòng thủ. Tuy nhiên, một số nhà nghiên cứu tin rằng virus HIV khiến hệ miễn dịch phản ứng quá mạnh. Điều này làm suy yếu hệ thống phòng thủ tiếp theo của hệ miễn dịch. Căn bệnh AIDS khiến 1,8 triệu người trên thế giới tử vong mỗi năm. Ước tính khoảng 2,6 triệu người nhiễm virus HIV trong năm 2009 và khoảng 33,3 triệu người đang nhiễm loại virus này trên thế giới.
Theo thông tin từ Bộ Y tế, trong tháng 10 vừa qua, cả nước có thêm 8.500 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết, trong đó đã có 5 người tử vong. Tính chung mười tháng đầu năm, cả nước có gần 60.000 trường hợp mắc bệnh sốt xuất huyết và 47 trường hợp tử vong. Ông Trần Thanh Dương – Phó cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) nhận định bệnh sốt xuất huyết vẫn đang trong giai đoạn tiếp tục có tỷ lệ mắc cao. Đặc biệt bệnh này tập trung nhiều ở các tỉnh thành phố lớn khu vực phía Nam. Bệnh nhi mắc sốt xuất huyết đang điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 1. (Ảnh: TTXVN) 10 tỉnh, thành phố có tỷ lệ người dân mắc bệnh sốt xuất huyết cao nhất cả nước là:Bình Phước, Bình Dương, Long An, Khánh Hòa, An Giang, Tiền Giang, Đồng Tháp, Kiên Giang, Bà Rịa-Vũng Tàu, Sóc Trăng. Theo thông tin từ Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh Đồng Nai, trong hai tuần gần đây, bệnh sốt xuất huyết trên địa bàn tỉnh đã bắt đầu tăng trở lại. Đặc biệt, tỷ lệ trẻ mắc bệnh nặng cũng gia tăng và nguy cơ tử vong cao nếu không được cứu chữa kịp thời. Tính từ đầu năm đến nay, Đồng Nai đã có 8 trường hợp tử vong do bệnh sốt xuất huyết. Trong hơn 5.800 ca mắc bệnh ghi nhận đầu năm đến nay, có đến 60% là trẻ em. Tình trạng chung khi nhập viện, các bệnh nhi đều bị sốt cao, nôn mửa, mệt mỏi và ăn uống kém. Cá biệt, có trẻ mới vài tháng tuổi đã mắc sốt xuất huyết nặng. Nhiều trẻ phải thở bằng máy và truyền dịch mới khỏi rơi vào tình trạng sốc nặng. Thông tin từ Sở Y tế tỉnh Khánh Hòa cho thấy, trong tháng Mười, bệnh sốt xuất huyết tại tỉnh này diễn ra rất phức tạp, bùng phát mạnh ở nhiều nơi trong tỉnh. Trung tuần tháng 10 vừa qua, tại Khánh Hòa đã có 2 ca tử vong vì bệnh này ở huyện Vạn Ninh và thành phố Nha Trang. Nguyên nhân hai ca tử vong trên xảy ra là do gia đình của bệnh nhân tự điều trị tại nhà, khi đưa đến các cơ sở y tế đã quá trễ. Như vậy, tính từ đầu năm đến giữa tháng Mười, toàn Khánh Hòa đã có 2.700 ca mắc bệnh, trung bình mỗi tuần có thêm trên 80 ca bệnh mới được ghi nhận. Thị xã Ninh Hòa và thành phố Nha Trang là hai địa phương có số ca bệnh cao nhất, chiếm hơn 50% số ca bệnh trên toàn tỉnh. Nguyên nhân bệnh sốt xuất huyết bùng phát mạnh ở phía Nam là do ở khu vực này thời tiết mưa nhiều, mực nước dâng cao, bụi rậm, ao đầm, mầm bệnh tiềm ẩn trong môi trường. Thêm vào đó, ý thức người dân về công tác phòng bệnh vẫn chưa cao là những nguyên nhân dịch bệnh sốt xuất huyết có nguy cơ bùng phát ra diện rộng trong những tháng cuối năm. Theo khuyến cáo của ngành y tế, người dân khi phát hiện con em mình có các triệu chứng sốt cao, nghi ngờ sốt xuất huyết thì nên sớm đưa trẻ đến cơ sở y tế để xác định đúng bệnh và điều trị kịp thời. Điều cần thiết nhất để phòng bệnh sốt xuất huyết là mỗi gia đình cần tăng cường diệt bọ gậy và phòng chống muỗi đốt bằng cách cho trẻ ngủ màn, kể cả ban ngày.
Bệnh quai bị đã được Hippocrates mô tả vào thế kỷ thứ V trước công nguyên. Quai bị là một bệnh nhiễm cấp tính do Paramyxovirus gây nên, làm viêm các tuyến nước bọt mang tai. Bệnh có trên toàn thế giới và chỉ xuất hiện ở người. Bệnh thường phát vào mùa xuân, nhất là trong khoảng thời gian tháng 4 và tháng 5, trong các môi trường tập thể như trường học, nhà trẻ, trại lính. Lứa tuổi và giới dễ bị bệnh quai bị Tuổi nào cũng có thể bị bệnh quai bị, khả năng mắc bệnh ở nam cao hơn nữ. Tuy nhiên ít gặp quai bị ở trẻ dưới 2 tuổi mặc dù trẻ chỉ được bảo vệ trong 6 tháng đầu nếu mẹ đã từng mắc bệnh quai bị. Sau 2 tuổi, tần suất bệnh tăng dần, đạt đỉnh cao ở lứa tuổi 10-19. Quai bị gây miễn dịch bền vững dù sưng 1 hay 2 bên tuyến mang tai nên ít khi bị quai bị lần 2. Sự lây truyền bệnh quai bị Quai bị lây theo đường hô hấp qua những giọt nước bọt khi bệnh nhân nói, ho, hắt hơi. Thời gian lây là tư? 6 ngày trước cơn toàn phát sưng tuyến mang tai cho đến 2 tuần sau khi có triệu chứng bệnh lý. Vấn đề lây qua đường phân và nước tiểu hiện vẫn chưa được xác nhận dù virus quai bị có khả năng tồn tại trong nước tiểu khoảng 2-3 tuần. Biểu hiện của bệnh quai bị Sau khi tiếp xúc với virus quai bị khoảng 14-24 ngày, người bệnh có cảm giác khó chịu, ăn kém, sốt, đôi khi rét, đau họng và đau góc hàm. Sau đó, tuyến mang tai sưng to dần trong khoảng 3 ngày rồi giảm sưng dần trong khoảng 1 tuần. Tuyến mang tai có thể sưng 1 bên hay 2 bên. Nếu sưng cả 2 bên thì 2 tuyến có thể không sưng cùng lúc, tuyến 2 bắt đầu sưng khi tuyến 1 đã giảm sưng. Vùng sưng thường lan đến má, dưới hàm, đẩy tai lên trên và ra ngoài; có khi lan đến ngực gây phù trước xương ức. Bệnh nhân có cảm giác đau ở vùng tuyến bị sưng nhưng da trên vùng sưng không nóng và không sung huyết, ngược với những trường hợp viêm tuyến mang tai do vi trùng. Lỗ ống Stenon ở niêm mạc má 2 bên sưng đỏ, có khi có giả mạc. Bệnh nhân có cảm giác khó nói, khó nuốt, đôi khi phù thanh môn gây khó thở phải mở khí quản. Thời gian biểu hiện bệnh lý khoảng 10 ngày. Tuy nhiên có khoảng 25% người bị nhiễm virus quai bị mà không có triệu chứng bệnh lý, đây là những đối tượng có khả năng truyền bệnh mà người xung quanh không nhận biết. Bệnh quai bị ở người lớn thường nặng và có nhiều biến chứng hơn ở trẻ em. Có thể có các biến chứng sau: 1. Viêm tinh hoàn và mào tinh hoàn: Có tỷ lệ 20-35% ở người sau tuổi dậy thì. Biến chứng này thường xảy ra sau đợt viêm tuyến mang tai khoảng 7-10 ngày nhưng cũng có thể xuất hiện trước hoặc đồng thời. Tinh hoàn sưng to, đau, mào tinh căng phù như một sợi dây thừng. Tình trạng viêm và sốt kéo dài 3-7 ngày, sau đó khoảng 1/2 trường hợp tinh hoàn teo dần và có thể dẫn đến tình trạng giảm số lượng tinh trùng và vô sinh. 2. Nhồi máu phổi: Là tình trạng có vùng phổi bị thiếu máu nuôi dưỡng, có thể tiến đến hoại tử mô phổi. Nhồi máu phổi là biến chứng có thể xảy ra sau viêm tinh hoàn do quai bị vì hậu quả của huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến. 3. Viêm buồng trứng: Có tỷ lệ 7% ở nữ sau tuổi dậy thì, ít khi dẫn đến vô sinh. 4. Viêm tụy: Có tỷ lệ 3%-7%, là một biểu hiện nặng của quai bị. Bệnh nhân bị đau bụng nhiều, ói, có khi tụt huyết áp. 5. Các tổn thương thần kinh: - Viêm não: Có tỷ lệ 0,5%. Bệnh nhân có các hiện tượng như: thay đổi tính tình, bứt rứt, khó chịu, nhức đầu, co giật, rối loạn tri giác, rối loạn thị giác, đầu to do não úng thủy. - Tổn thương thần kinh sọ não: Dẫn đến điếc, mù. - Viêm tủy sống cắt ngang. - Viêm đa rễ thần kinh. 6. Bệnh quai bị ở phụ nữ có thai: - Những phụ nữ bị quai bị trong 3 tháng đầu của thai kỳ có thể gây sẩy thai hoặc sinh con dị dạng. - Bị quai bị trong 3 tháng cuối của thai kỳ có thể sinh non hoặc thai chết lưu. 7. Một số biến chứng khác: Viêm cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm tuyến lệ, viêm thần kinh thị giác (gây giảm thị lực tạm thời trong 10-20 ngày), viêm thanh khí phế quản, viêm phổi, rối loạn chức năng gan, xuất huyết do giảm tiểu cầu. Vì viêm tuyến mang tai còn có thể gây ra do các virus khác (Coxackie, Influenza), do vi trùng (Staphylococcus aureus), do tắc ống dẫn tuyến vì sỏi; và viêm tinh hoàn còn có thể do lao, Leptospirose, lậu nên trong một số trường hợp khó chẩn đoán, bệnh nhân cần thực hiện một số xét nghiệm như: - Phân lập virus từ máu dịch họng, dịch tiết từ ống Stenon, nước tiểu hay dịch não tủy. - Các phản ứng huyết thanh học: Test ELISA, miễn dịch huỳnh quang, trung hòa bổ thể. Ðiều trị - Cho mọi bệnh nhân: Cách ly bệnh nhân 2 tuần kể từ lúc phát hiện bệnh, vệ sinh răng miệng, ăn những thực phẩm dễ nuốt, giảm đau tại chỗ bằng cách đắp ấm vùng sưng, giảm đau toàn thân và hạ sốt bằng Paracetamol. - Trường hợp viêm tinh hoàn: a. Mặc quần lót nâng tinh hoàn để giảm đau. b. Dùng corticoid đúng liều, quan trọng nhất là dùng liều lớn khi khởi đầu (60mg Prednisolon), sau đó giảm dần trong 7-10 ngày. c. Phẫu thuật giải áp khi tinh hoàn bị chèn ép nhiều. Phòng bệnh Phòng bệnh quai bị chủ động với vaccin, thường kết hợp với phòng sởi và rubella (Trimovax, MMR). Không nên tiêm vaccin cho trẻ dưới 1 tuổi (tuy nhiên nếu trẻ sống trong môi trường tập thể, có thể tiêm ngừa từ 9 tháng tuổi), phụ nữ có thai, người bị dị ứng với thuốc chủng, người đang dùng thuốc gây giảm miễn dịch (corticoid, thuốc điều trị ung thư), người đang điều trị với tia phóng xạ. Số lần tiêm: - Nếu bắt đầu tiêm từ 12 tháng tuổi: tiêm 2 lần, lần 1 lúc 12 tháng tuổi, lần 2 từ 4-12 tuổi. - Nếu bắt đầu tiêm từ 9 tháng tuổi: tiêm 3 lần, lần 1 lúc 9 tháng tuổi, lần 2 sau lần 1 sáu tháng, lần 3 từ 4-12 tuổi. Phòng bệnh quai bị thụ động với globulin miễn dịch, dùng cho người tiếp xúc với virus quai bị mà chưa được tiêm vaccin trước đó.

Chủ Nhật, 8 tháng 9, 2013

Giang mai rất nguy hiểm đối với sức khỏe và khả năng sinh sản, cần phát giác triệu chứng bệnh giang mai ở nam giới sớm để có hướng điều trị thích hợp.


Mối lo ngại lớn khi quan hệ tình dục không an toàn
Hiện nay, chưa có một số liệu thống kê chính xác nào về số lượng người mắc bệnh giang mai bởi tâm lý lo sợ, e ngại của người bệnh khi đến bệnh viện khám và điều trị. Đa phần, những người mắc phải bệnh này thường tìm mọi cách chữa trị “kín đáo”, bởi vậy khả năng lây nhiễm ngày càng cao, đe dọa cuộc sống của người bệnh, gia đình cũng như toàn xã hội. Thực trạng trên cần được chấm dứt nhanh chóng. Mặt khác, tỉ lệ nam giới mắc bệnh này cao hơn nhiều so với nữ giới song các đấng “anh hào” lo sợ mất khí chất nam nhi nên không sớm điều trị, chỉ khi “không thể trì hoãn” được nữa mới tìm cách giải quyết muộn màng.Vì vậy, việc phát hiện triệu chứng bệnh giang mai ở nam giới là bước đầu tiên trong quá trình điều trị và đẩy lùi bệnh này ra khỏi cuộc sống của con người.
Bệnh giang mai phát triển theo 4 giai đoạn, triệu chứng của mỗi gian đoạn rất khác nhau, cụ thể như sau:
Giai đoạn 1
Giai đoạn đầu tiên có vai trò quan trọng trong toàn bộ quá trình phát triển của bệnh, chính vì vậy cần phát hiện sớm để điều trị hiệu quả nhất, nếu không khả năng chữa bệnh sẽ ngày càng thấp đi.
- Sau khi tiếp xúc với nguồn bệnh (quan hệ tình dục không an toàn, dùng chung đồ đạc với người bị giang mai) từ 3-90 ngày (thông thường là 3 tuần) sẽ xuất hiện các vết tổn thương da tại những điểm tiếp xúc.
- Các xoắn khuẩn giang mai thâm nhập vào trong và tạo ra các săng giang mai, đây là biểu hiện nặng nhất của giai đoạn 1. Ở nam giới, săng giang mai thường xuất hiện ở quy đầu, rãnh quy đầu, bao quy đầu, trên đầu dương vật, ngoài ra có thể xuất hiện ở hậu môn và miệng,…
- Các tổn thương đầu tiên là các nốt ban lan dần ra ngày một rộng ra nhanh chóng sau đó hình thành vết loét có đường kính 1 – 2 cm, xung quanh nổi lên những hình tròn màu đỏ, không có cảm giác ngứa hay đau, trên bề mặt bị loét hoặc loét nhẹ hoặc không có triệu chứng loét. Cũng có lúc chảy một ít dịch, có độ cứng như sụn, không có cảm giác đau.
- Các triệu chứng trên có thể mất đi trong khoảng 3-6 tuần lễ kể cả không điều trị, vì vậy nhiều người nhầm tưởng là đã khỏi bệnh và mặc định không cần theo dõi hay đi khám lại nữa, trên thực tế, lúc này vi khuẩn đã vào máu, gây những tổn thương tiếp theo cho giai đoạn sau.
Phát giác triệu chứng bệnh giang mai ở nam giới 1
Các vết loát trên da giai đoạn 1
Giai đoạn 2
Sau khi phát giác triệu chứng bệnh giang mai ở nam giới giai đoạn 1 nhưng do tâm lý chủ quan khi các nốt ban tự nhiên mất đi nên không điều trị thì bệnh chuyển sang giai đoạn 2 với các biểu hiện, triệu chứng cơ bản sau:
- Thời gian “phát bệnh” sau giai đoạn đầu từ 4-10 tuần
- Đào ban (những nốt ban đối xứng, có màu hồng) xuất hiên trên toàn thân, không hề ngứa hay đau đớn gì. Không nổi cao trên bề mặt da, khi ấn vào thì mất, không bị bong vảy và sẽ tự mất đi.
- Các đào ban thường cư trú ở vùng bụng, chi trên hay hai bên mạng sườn trong khoảng 1 đến 3 tuần rồi nhạt dần màu và biến mất.
- Nghiêm trọng hơn, bệnh có thể làm xuất hiện các mảng sần hay các vết loét ở da và niêm mạc với nhiều kích thước khác nhau. Trong các vết này chứa nhiều vi khuẩn nên khi tiếp xúc với người bệnh thường dễ bị lây nhiễm.
- Đối với những người hay uống rượu khi bệnh phát triển đến giai đoạn này sẽ xuất hiện các sẩn mủ giống như bị viêm da.
- Tại những vùng kín đáo như âm hộ, bìu, các thương tổn giống như mụn cóc (bằng phẳng và có màu trắng)
- Bệnh nhân có thể bị sốt, đau đầu, sụt cân và nổi hạch
Các triệu chứng của giai đoạn này sẽ tự mất đi sau 3-6 tuần
Phát giác triệu chứng bệnh giang mai ở nam giới 2
Các đào ban ở giai đoạn 2
Giai đoạn tiềm ẩn
Giang mai tiềm ẩn được chia làm hai loại là tiềm ẩn sớm (xảy ra trước 1 năm sau giai đoạn 2) và tiềm ẩn muộn (kéo dài hơn 1 năm khi kết thúc giai đoạn 2), chỉ được xác định khi có bằng chứng huyết thanh của bệnh chứ  không có dấu hiệu cụ thể hoặc triệu chứng dễ nhìn thấy bằng mắt thường được. Theo nghiên cứu, giang mai tiềm ẩn sớm có khả năng lây nhiễm cao hơn giang mai tiềm ẩn muộn rất nhiều.
Phát giác triệu chứng bệnh giang mai ở nam giới 3
Giai đoạn tiềm ẩn không dễ nhận biết
Giai đoạn 3
Người mắc giang mai ở giai đoạn này không còn khả năng lây bệnh nữa. Có thể xảy ra sau các giai đoạn 1 và 2 một khoảng thời gian rất dài, từ 3-15 năm và chia làm 3 hình thức khác nhau:giang mai tim mạch, củ giang mai và giang mai thần kinh.
- Giang mai thần kinh: chiếm khoảng 6,5% số người mắc giang mai. Xuất hiện trong khoảng từ 4-25 năm sau khi nhiễm bệnh. Ban đầu khi còn sớm thường không có biểu hiện nào rõ rệt. Sau đó, vào giai đoạn muộn nó gây ra những tổn thương tới hệ thần kinh trung ương như viêm màng não, chảy máu não,… khiến người bệnh suy nhược thần kinh, bị ảo giác, động kinh hay mắc chứng trầm cảm.
- Giang mai tim mạch: Con số những người bị giang mai tim mạch là 10%, bệnh có thể xuất hiện trong khoảng 10-30 năm sau khi nhiễm bệnh, triệu chứng thường gặp nhất là hiện tượng phình mạch.
- Củ giang mai: Có khoảng 15%  trong tổng số người bị bệnh giang mai phải đối mặt với hình thức bệnh này. Củ giang mai thường có hình cầu hoặc mặt phẳng không đối xứng, nếu tiến triển không lành tính thì gây hoại tử, vết loét khó lành và để lại sẹo. Nếu củ giang mai xuất hiện ở các vùng quan trọng có thể đe dọa tính mạng người bệnh.
Phát giác triệu chứng bệnh giang mai ở nam giới 4
Các củ giang mai đang hủy hoại người bệnh
Trên đây là những triệu chứng bệnh giang mai ở nam giới qua từng giai đoạn cụ thể. Khamchuabenh.info hi vọng bạn không bao giờ phải đối mặt với căn bệnh nguy hiểm này. Để bảo vệ sức khỏe cá nhân, gia đình và cộng đồng hãy có ý thức quan hệ tình dục an toàn các bạn nhé !

Phòng bệnh thuỷ đậu ở trẻ em là cần thiết để tránh những biến chứng sau này khi lớn lên. Tiêm chủng là cách hiệu quả nhất giúp phòng ngừa sự xâm nhập của virus thuỷ đậu.


Thuỷ đậu chỉ là một bệnh lành tính dễ mắc trong thời thơ ấu, nhưng nó có thể trở nên nghiêm trọng nếu mắc bệnh ở tuổi thanh thiếu niên và tuổi trưởng thành. Bệnh cũng rất nguy hiểm đối với phụ nữ mang thai. Vì những ảnh hưởng nghiêm trọng đối với sức khoẻ, thậm chí là đe doạ tính mạng nên việc phòng bệnh thuỷ đậu là rất quan trọng.

Virus thuỷ đậu rất dễ lây lan
Cách phòng thuỷ đậu ở trẻ em
1. Không cho trẻ tiếp xúc với người mắc bệnh
Virus thuỷ đậu rất dễ lây lan. Những người mắc bệnh cần được cách ly điều trị để tránh lây nhiễm cho người khác. Không cho trẻ chơi gần những trẻ mắc bệnh khác, đặc biệt khi các phát ban trên da chưa đóng vảy.
Virus thuỷ đậu có thể lây lan trong vòng 24 – 48 giờ trước khi phát ban xuất hiện. Do đó, việc chủng ngừa vắc xin là cần thiết để bảo vệ trẻ trước nguy cơ nhiễm bệnh.
Phòng bệnh thuỷ đậu ở trẻ em 1
Cách ly trẻ mắc bệnh để tránh lây lan cho người khác
2. Dự phòng lây nhiễm.
Nếu trẻ em hoặc người lớn tiếp xúc với bệnh nhân mắc bệnh thuỷ đậu thì có nguy cơ nhiễm trùng cao. Rất hiếm khi những người đã mắc bệnh một lần trong quá khứ tiếp tục bị lây nhiễm lần 2. Tuy nhiên, đối với trường hợp hệ miễn dịch yếu thì vẫn có nguy cơ mắc bệnh nhẹ.  Đối với những người chưa từng nhiễm virus, và cũng chưa tiêm phòng vắc xin có thể lựa chọn 1 trong các phương pháp phòng bệnh thuỷ đậu sau đây:
- Vắc xin thuỷ đậu: Trong vòng 3 ngày kể từ khi tiếp xúc với bệnh nhân mắc thuỷ đậu, bạn cần đến các cơ sở y tế  tiêm văc xin giúp phòng ngừa sự lây lan của virus. Không phải 100% các trường hợp đều được bảo vệ nhưng có thể giảm nguy cơ đáng kể.
- Globulin miễn dịch thuỷ đậu (VZIG): Đây là một phương pháp phòng ngừa tự nhiên, glububin được lấy trực tiếp từ người mắc bệnh thuỷ đậu và tiêm vào người khoẻ mạnh có tác dụng bảo vệ ngay lập tức. Tuy nhiên, việc phòng ngừa này chỉ kéo dài trong một vài tuần.
Phòng bệnh thuỷ đậu ở trẻ em 2
Tiêm phòng là cách ngăn ngừa tốt nhất
- Acyclovir: Đây là một loại thuốc kháng virus và có thể phòng ngừa bệnh thuỷ đầu nếu được sử dụng trong vòng vài ngày sau khi tiếp xúc với người bệnh. Thuốc cũng phát huy tác dụng trong một vài ngày.
Vắc xin chủng ngừa  có vẻ như là lựa chọn phòng bệnh thuỷ đậu tốt nhất vì nó giúp bảo vệ lâu dài và an toàn. Tuy nhiên, văcxin không sử dụng trong thời kỳ mang thai và em bé dưới 1 tuổi. Đối với những người bị dị ứng vắc xin thì VZIG hay acyclovir là lựa chọn thay thế khả thi.

Cùng chúng tôi tìm hiểu về bệnh sủi mào gà để tìm ra nguyên nhân, phòng và điều trị bệnh hiệu quả!



Nỗi lo về sủi mào gà của nam giới
Là một bệnh lây qua đường quan hệ tình dục, bệnh sủi mào gà có nguy cơ lây lan rất lớn. Cả nam và nữ đều có thể mắc phải nếu có quan hệ tình dục không an toàn và vệ sinh “vùng kín” không đúng cách. Thông thường, bệnh sẽ diễn tiến lành tính nhưng vẫn có nhiều trường hợp bệnh phát triển ác tính, gây ung thư dương vật hoặc ung thư cổ tử cung, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe và tâm lý người bệnh. Bài viết này của chúng tôi cung cấp kiến thức mang tính bước đầu tìm hiểu bệnh sủi mào gà giúp bạn có sự am hiểu nhất định về loại bệnh này để phòng tránh cũng như chữa bệnh.
Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh do một loại virut mang tên HPV (Human papilloma virus ) gây nên. HPV là một loại virus DNA gây u nhú ở người, chọn lọc ở da và niêm mạc dẫn tới sự xuất hiện các mào gà ở cơ quan sinh dục nam và nữ. Nguyên nhân chủ yếu do quan hệ tình dục không an toàn khiến lây nhiễm từ vợ sang chồng hay ngược lại. Ngoài ra, vệ sinh cá nhân không sạch sẽ cũng tạo điều kiện cho virut gây bệnh tấn công, thâm nhập vào cơ quan sinh dục. Khi virut tấn công vào cơ thể dẫn tới:
- Chức năng miễn dịch tế bào suy giảm, từ đó chức năng miễn dịch cơ thể bị hạn chế.
- Hạn chế cơ thể sản sinh các phản ứng miễn dịch
- Nếu điều trị bệnh không triệt để sẽ bị tái phát do hiện tượng nhiễm khuẩn.
Bước đầu tìm hiểu về bệnh sủi mào gà 2
Sủi mào gà rất dễ lây nhiễm
Triệu chứng bệnh
Thời gian ủ bệnh khá dài, từ khoảng 2-9 tháng, trong suốt khoảng thời gian này người bệnh không có biểu hiện hay triệu chứng gì. Các virrut gây bệnh âm thầm làm tổn hại cơ thể từ bên trong, cho đến khi có nhũng dấu hiệu phát bệnh thì mới có nhũng triệu chứng cụ thể sau:
- Xuất hiện các đốm nhỏ liti thành từng chùm ở cơ quan sinh dục. Theo tiến triển của bệnh những sùi nhỏ mềm, cao lên như những nhú gai, có đường kính từ 1-2mm. Cũng có thể các sủi là những đĩa bẹt tròn, bề mặt ráp, màu hồng. Nếu không phát hiện sớm chúng sẽ phát triển thành các gai lá, có thể cao vài cm trông giống như mào gà hay súp lơ màu trắng hồng. Tại các sủi này thường có mủ, mềm và ẩm ướt.
+ Nam giới: các sủi mào gà xuất hiện ở rãnh quy đầu, bao quy đầu, phần đầu của niệu đạo, da bìu hay miệng sáo.
+ Phụ nữ: Các sủi mào ga thường xuất hiện ở âm vật, môi lớn, môi bé hay cổ tử cung. Có nhiều trường hợp tổn thương lan rộng ra toàn bộ bộ phận sinh dục, các nếp gấp ở bẹn hay hậu môn.
- Có thể bị đau ở các vết sủi mào gà. Thông thường các sủi này không gây đau đớn nhưng khi sủi phát triển quá to, nhiều mủ sẽ tạo cảm giác đau đớn khi vận động, đi lại.
- Có thể bị sốt và đau đớn.
Như vậy nếu không tìm hiểu về bệnh sủi mào gà, người có nguy cơ nhiễm bệnh không thể sớm có cách xử lý và phương pháp điều trị phù hợp vì các triệu chứng này chỉ xuất hiện sau thời gian ủ bệnh rất dài.
Phương pháp điều trị
Một vài cách điều trị đã và đang được áp dụng tại các trung tâm y tế có trang thiết bị và đội ngũ y bác sĩ có chuyên môn để trị bệnh sủi mào gà sau:
- Đốt điện
- Chấm dung dịch podophyllin 25%, hoặc chấm acidtrichloracetic 80%
- Một vài phương pháp khác như: nito lỏng, lasre hay phẫu thuật
Phòng bệnh sủi mào gà
- Vệ sinh cá nhân sạch sẽ
- Quan hệ tình dục an toàn: Rửa sạch cơ quan sinh dục bằng dung dịch vệ sinh trước và sau khi quan hệ; Sử dụng bao cao su,…
Bước đầu tìm hiểu về bệnh sùi mào gà 6
Trên đây là những thông tin cơ bản giúp bạn tìm hiểu về bệnh sủi mào gà hiệu quả. Chúc bạn luôn mạnh khỏe và an toàn!

Bạn đang bị hắc lào? Tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh hắc lào giúp bạn có hướng điều trị kịp thời.


Bệnh hắc lào là bệnh ngoài da thường gặp
Cảm giác ngứa ngáy xuất hiện ngày một rõ rệt kèm theo những dấu hiệu khác lạ ở vùng da bị tổn thương khiến bạn lo lắng? Tại các mụn nước, có màu đỏ, tập trung thành một vùng có dạng như đồng tiền xu rất đau rát, khó chịu đặc biệt khi thời tiết nóng ẩm, vận động nhiều hay về đêm. Đây là dấu hiệu cho thấy bạn đã bị hắc lào. Bệnh có thể gặp ở nhiều vùng da như mặt, bẹn, chân tay. Vậy vì đâu mà bạn bị nhiễm bệnh này? Cùng Khamchuabenh.info tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh hắc lào để nắm bắt cơ chế gây bệnh từ đó có phương pháp điều trị, phòng tránh hiệu quả.
Vi nấm gây bệnh
Dân gian còn gọi bệnh hắc lào là lác. Bệnh do một loại vi nấm cạn gây nên. Tác nhân gây bệnh thuộc dermatophytes, thường gặp nhất là là hai loại trychophyton và epidermophyton.
Tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh hắc lào 1
Vi nấm gây bệnh hắc lào
Thói quen sinh hoạt
Những thói quen sinh hoạt không lành mạnh cũng là nguyên nhân gây bệnh hắc lào, có thể kể đến như:
- Mặc quần áo ẩm ướt, mặc đồ chung với người lạ: Môi trường ẩm ướt là điều kiện lí tưởng cho sự phát triển của nấm gây bệnh. Quần áo ẩm ướt còn khiến tăng nguy cơ mắc các bệnh ngoài da khác.
- Ít tắm giặt mà lại hay ra nhiều mồ hôi. Thói quen xấu này tạo điều kiện thuận lợi cho các loại nấm, vi khuẩn, kí sinh trùng dễ dàng thâm nhập vào cơ thể và phát bệnh.
- Bơi lội tại vùng nước bẩn: Đây cũng là một nhân tố khiến bạn bạn hắc lào.
Bị lây nhiễm
Hắc lào là bệnh ngoài da dễ lây nhiễm qua đường tiếp xúc da thịt thông thường hay mặc chung quần áo, dùng chung đồ dùng sinh hoạt. Bạn có thể bị lây nhiễm do:
- Quan hệ tình dục với người bị nhiễm bệnh hay với người lạ: Sự tiếp xúc thân mật khiến các vùng da không bị bệnh có thể cọ xát và bị nhiễm từ những vùng da đã bị hắc lào.
- Mặc quần áo chung với người đã bị nhiễm bệnh
- Có thể bị lây nhiễm từ động vật, đất đai
Các biện pháp phòng bệnh chủ yếu
Xuất phát từ việc nhận định nguyên nhân gây bệnh hắc lào, bạn có thể phòng bệnh bằng một số biện pháp chủ yếu sau:
- Vệ sinh sạch sẽ
- Không mặc chung đồ với người khác
- Không quan hệ tình dục “tùy tiện”
Tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh hắc lào 2
Vệ sinh sạch sẽ để phòng bệnh
Trên đây là những nguyên nhân gây bệnh hắc lào nắm bắt được điều này giúp bạn có thể tránh khỏi nguy cơ mắc bệnh và có phương hướng điều trị kịp thời.

HIV là hiểm họa của toàn nhân loại? Những triệu chứng ban đầu của bệnh HIV là gì?


Nói không với HIV
Người  nhiễm HIV thường có biểu hiện giống như bị bệnh cúm hay bạch cầu đơn nhân. Những biến đổi khác thường bắt đầu xuất hiện sau khi tiếp xúc với mầm bệnh khoảng 2-4 tuần. Đôi khi, người bị nhiễm virut HIV không có triệu chứng đặc biệt nào bởi thời gian ủ bệnh khá dài. Các virut âm thầm tấn công vào hệ thống miễn dịch khiến sức đề kháng của người bệnh giảm sút nhanh chóng. Theo quan sát, có khoảng 40-90 người nhiễm HIV sẽ phải trải qua hội chứng ban đầu mang tên retrovirus cấp tính (ARS). Hội chứng này rất nguy hiểm, nó sản xuất ra các triệu chứng ban đầu của bệnh HIVretrovirus cấp tính (ARS) như sau:
Sốt và đau đầu
Sốt là biểu hiện sớm nhất sau khi người bệnh tiếp xúc với mầm bệnh từ 2-4 tuần, cả nam và nữ đều có dấu hiệu này. Thân nhiệt của người bệnh thường >38 độ C kèm theo hiện tượng đau đầu, buồn nôn, người ớn lạnh. Đây là biểu hiện tương tự như bệnh cúm thông thường nên nhiều người chủ quan, không cảnh giác. Các cơn đau đầu có thể xảy ra liên tục, mức độ nặng nhẹ tùy theo cơn sốt và thể chất của người nhiễm virut HIV tại mỗi thời điểm.
Những triệu chứng ban đầu của bệnh HIV 1
Sốt và đau đầu là biểu hiện sớm nhất của người nhiễm HIV
Nhiệt miệng, lở loét
Những người nhiễm HIV thường có triệu chứng bị tổn thương da như xuất hiện các vết thương hở hay các vết loét ở miệng hay cổ họng trong giai đoạn đầu của nhiễm trùng.  Các vết thương nhỏ này có thể gây đau đớn, có khi mọc ở hậu môn hay dương vật khiến người bệnh đau và gặp khó khăn khi vệ sinh cá nhân.
Những triệu chứng ban đầu của bệnh HIV 2
Nhiệt miệng, lở loét có thể là dấu hiệu nhận biết HIV
Luôn thấy mệt mỏi, kiệt sức
Virut HIV sau khi thâm nhập vào cơ thể, bắt đầu công cuộc phá hủy khả năng miễn dịch của con người khiến sức đề kháng của người bệnh giảm sút nghiêm trọng. Điều này khiến cơ thể người bệnh luôn trong tình trạng mệt mỏi mà không rõ nguyên nhân, thậm chí họ còn rơi vào tình trạng kiệt sức, không còn sinh lực để duy trì các hoạt động thông thường.
Những triệu chứng ban đâu của bệnh HIV 4
Người nhiễm HIV luôn thấy mệt mỏi, kiệt sức
Phát ban trên da
Đây là một trong những triệu chứng ban đầu của bệnh HIV thường gặp nhất. Các vết ban xuất hiện ở mọi nơi trên cơ thể như bụng, mặt, lưng, cơ quan sinh dục hay hậu môn, thường sậm màu hơn những vùng da xung quanh, khô và gây ngứa. Hiện tượng phát ban trên da có thể kéo dài 1 tuần hoặc nhiều hơn nữa rồi tự biến mất nên thường gây nhầm lẫn với các bệnh ngoài da khác.
Những triệu chứng ban đầu của bệnh HIV 3
Phát ban trên da là dấu hiệu bị nhiễm HIV
Chán ăn và sụt cân
Khi bị nhiễm HIV, người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi, không muốn làm gì, không hoạt động, vận động thường xuyên. Kèm theo đó là cảm giác chán ăn. Điều này khiến người nhiễm HIV bị sụt cân nhanh chóng, thông thường sẽ bị mất đi >10% trọng lượng cơ thể so với trước khi bị nhiễm bệnh.
Những triệu chứng ban đầu của bệnh HIV 5
Như vậy, những triệu chứng ban đầu của bệnh HIV rất dễ gây nhầm lẫn với các bệnh khác, do vậy nếu bạn đang nghi ngờ và thấy hoang mang trước nguy cơ bị nhiễm HIV vì bất cứ nguyên nhân nào hãy sớm đến bệnh viện, trung tâm y tế để khám và có hướng xử lý thông minh.

Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

Hầu hết trẻ sơ sinh đều nhận được kháng thể thuỷ đậu từ mẹ trong tử cung. Do đó, các triệu chứng bệnh thuỷ đậu ở trẻ sơ sinh khá hiếm nhưng không phải là không có.

Dưới đây là những triệu chứng phổ biến:
Phát ban và phồng rộp dưới da
Dấu hiệu nổi bật của bệnh thuỷ đậu ở trẻ sơ sinh là các phát ban ngứa, sau đó tạo thành mụn nước. Các phát ban thường xuất hiện trên bụng, mặt và lưng và lan rộng ra khắp cơ thể. Theo ước tính, trẻ sơ sinh có thể xuất hiện từ 250 đến 500 mụn nước trên da nếu mắc thuỷ đậu.
 Các triệu chứng bệnh thuỷ đậu ở trẻ sơ sinh 1
Phát ban trên da do thuỷ đậu
Sốt cao
Bệnh thuỷ đậu ở trẻ sơ sinh thường gây sốt trong những ngày đầu tiên nhiễm virus. Trẻ thường sốt cao trong khoảng từ 39 đến 39,5 độ C. Hiếm có trường hợp nào sốt cao hơn.
Các triệu chứng giống cúm
Nhiều trẻ sơ sinh mắc thuỷ đậu có các triệu chứng giống như cúm thông thường. Các triệu chứng này thường xuất hiện 2 ngày trước khi phát ban trên da và kéo dài trong 1 vài ngày với các biểu hiện như:  chán ăn, ho nhẹ, chảy nước mũi.
 Các triệu chứng bệnh thuỷ đậu ở trẻ sơ sinh 2
Trẻ mắc thuỷ đậu thường có triệu chứng giống cúm
Các triệu chứng đáng lo ngại khác
Mặc dù hiếm, những bệnh thuỷ đậu ở trẻ sơ sinh có thể tiến triển và gây biến chứng nghiêm trọng như nhiễm trùng da do vi khuẩn, viêm phổi, sưng não. Các triệu chứng tiến triển bao gồm phát ban lây lan tới mắt, gây đau đớn và có màu đỏ. Nếu có các triệu chứng này, phụ huynh cần thông báo ngay cho bác sĩ.
Chủng ngừa vắc xin thuỷ đậu cho trẻ
Để phòng ngừa bệnh, các bậc phụ huynh nên cho trẻ được tiêm phòng vắc xin thuỷ đậu trong năm đầu đời. Vắc xin chủng ngừa sẽ giúp trẻ phòng ngừa virus và bệnh zona trong suốt cuộc đời. Theo thống kê, khoảng 10% người lớn mắc bệnh thuỷ đậu sẽ tiến triển bệnh zona gây đau đớn.
Phòng ngừa bệnh thuỷ đậu ở trẻ sơ sinh
Tiêm phòng là cách tốt nhất phòng ngừa bệnh thuỷ đậu ở trẻ sơ sinh
Sau khi tiêm vắc xin trẻ cần được theo dõi phản ứng. Nếu trẻ chỉ sưng và sốt nhẹ sau tiêm sẽ không cần lo lắng. Mặc dù rất hiếm, nhưng một số trẻ có thể bị sốt cao, co giật sau khi tiêm.
Trên đây là các triệu chứng bệnh thủy đậu ở trẻ sơ sinh mà khamchuabenh.info muốn giới thiệu với các bạn!
Chúc các bạn luôn mạnh khỏe!
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -