Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh da liễu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn bệnh da liễu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

NẤM DA ĐẦU CÓ LÂY KHÔNG? 
1.1. Tình hình
Nước ta ở vùng nhiệt đới thích hợp cho bệnh nấm da phát triển, nó đứng hàng thứ hai sau eczema (nhưng trong quân đội bệnh nấm da đứng hàng đầu).

 
 

 
 
1.2. Giới thiệu vài nét về vi nấm
 
+ Nấm là một loậi thực vật hạ đẳng, không có diệp lục tố nên không tổng hợp được chất hữu cơ, phải sống nhờ vào chất hữu cơ của sinh vật khác bằng cách hoại sinh hoặc bằng cách sống kỳ sinh vào vật chủ (pazazita).
 
+ Nấm mọc thành sợi, chia đốt bởi các vách ngăn có lỗ thủng để nguyên sinh chất lưu thông trong lòng sợi nấm. Nhiều sợi chằng chịt tạo thành hệ sợi nấm, khi già hình thành bào tử, thường có hình tròn, 2 vỏ, vỏ ngoài dày, có sức chống đỡ cao với điều kiện ngoại cảnh, nguyên sinh chất cô đặc dự trữ nhiều chất dinh dưỡng, như vậy bào tử chính là cơ quan lây truyền và bảo vệ nòi giống của nấm.
 
1.3. Phương thức lây truyền
 
Ngưòi ta bị bệnh nấm do các phương thức sau:
 
+ Nhiễm bào tử có trong thiên nhiên ở đất cát, không khí, cây cỏ mục nát…)
 
+ Người bệnh lây sang người lành (ngủ chung, dùng chung đồ), đây là véc tơ chính.
 
+ Súc vật (chó, mèo) bị bệnh lây cho người.
 
1.4. Điều kiện thuận lợi để mắc bệnh nấm
 
+ Nấm dễ phát triển ở pH 6,9-7,2 hơi kiềm do đó người ta hay bị bệnh nấm ở da ở nếp kẽ.
 
+ da bị xây sát, da khô, rối loạn cấu tạo lớp sừng.
 
+ Nhiệt độ 27-30oC
 
+ Vệ sinh thiếu sót, mặc áo lót quần chật.
 
+ Rối loạn nội tiết (candida), suy giảm miễn dịch, dùng kháng sinh lâu ngày, dùng thuốc ức chế miễn dịch.
 
1.5. Miễn dịch trong bệnh nấm da
 
+ Có thể địa dễ “bắt nấm” (liên quan yếu tố mồ hôi, tuyến bã, cấu tạo lớp sừng…)
 
+ Có miễn dịch nhưng tính kháng nguyên thấp và không đặc hiệu. Nên việc dùng kháng nguyên để chẩn đoán và phòng bệnh nấm da chưa có kết quả cao.
 
1.6. Cơ cấu bệnh nấm da
 
Theo Nguyễn Cảnh Cầu (1994), khám 5663 quân nhân có 2634 người bị bệnh ngoài da (chiếm 46,51%). Trong đó cơ cấu bệnh như sau:
 
+ Bệnh nấm da chiếm 37,31%.
 
+ Bệnh lang ben chiếm 14,12%.
 
+ Ghẻ: 13,17%.
 
+ Viêm da liên cầu 11,84%. Ecema 3,15%.
 
+ Các bệnh ngoài da khác 15, 86%.
 
1.7. Phân loại bệnh
 
Dựa vào tính chất và đặc điểm của nấm gây bệnh chia thành các loại sau:
 
- Nấm chỉ gây nhiễm lớp sừng (Keratomycoses)
 
+ Nấm lang ben.
 
+ Nấm vảy rồng.
 
+ Trứng tóc.
 
- Nấm da (Dermatomycoses).
 
+ Epidermophytie.
 
+ Trichophytie.
 
+ Microsporie.
 
- Các bệnh gây nên do nấm Candida.
 
- Các bệnh nấm hệ thống: gây tổn thương da,tổ chức dưới da, phủ tạng.
 
2. Một số bệnh nấm da thông thường
 
2.1. Nấm hắc lào
 
Gồm nấm bẹn, nấm da thường, (trừ nấm tóc, nấm kẽ, nấm móng). Bệnh thường bị vào mùa hè.
 
- Căn nguyên: gây nên do Epidermophyton, Trichophyton hoặc Microsporum.
 
- Vị trí: thường xảy ra ở các nếp kẽ lớn, thường ở nếp bẹn 2 bên, kẽ mông,thắt lưng, nách, nếp vú phụ nữ, thân mình, các chi, đôi khi xuất hiện ở cổ gáy, mặt.
 
- Tổn thương cơ bản: ban đầu khi nhiễm nấm trên da xuất hiện đám đỏ hình tròn như đồng xu đường kính 1-2 cm sau lan to ra, về sau các đám tổn thương liên kết thành mảng lớn bằng lòng bàn tay hay to hơn nữa, có hình đa cung.
 
- Tính chất: đám đỏ có bờ viền ranh giới rõ, bờ gồ cao trên mặt da, bờ có một số mụn nước nhỏ li ti, giữa đám tổn thương có xu hướng lành, hơi bong vảy da. Tổn thương phát triẻn li tam dần ra ngoại vi.
 
- Triệu chứng cơ năng: ngứa, đặc biệt khi nóng, ra mồ hôi thì rất ngứa khó chịu.
 
-Tiến triển: lành tính nhưng nếu không điều trị triệt để dễ trở thành nấm da mạn tính hay tái phát.
 
- Các thể lâm sàng:
 
+ Nấm da nhiễm khuẩn: do bệnh nhân gãi, tổn thương bị trợt dẫn đến nhiễm khuẩn phụ, xuất hiện một số mụn mủ trên đám tổn thương nấm.
 
+ Nấm da viêm da, eczema hoá: do bệnh nhân chà xát, gãi, hoặc bôi thuốc mạnh (axit, pin đèn, kiến khoang…) làm tổn thương trợt, rớm dịch, chảydịch, viêm lan toả, nề…
 
+ Nấm da mạn tính: bề mặt tổn thương thẫm màu, giới hạn tổn thương kém rõ rệt, chẩn đoán khó, có khi xét nghiệm nấm âm tính.
 
- Chẩn đoán cận lâm sàng:
 
Cần cạo vảy da từ tổn thương để xét nghiệm soi tìm sợi nấm hoặc đem nuôi cấy bệnh phẩm để xác định loài nấm.
 
- Chẩn đoán phân biệt: cần chẩn đoán phân biệt một số bệnh da sau:
 
+ Phong củ: vị trí hở, giới hạn rõ nhưng bờ là củ nhỏ, mất cảm giác, xét nghiêm nấm (-)
 
+ Vảy phấn hồng Gibert 1/2 trên, đám mẹ, đám con, đám có giới hạn, viền, vảy mỏng ở rìa đám.
 
+ Vảy nến: cộm đỏ, giới hạn rõ, nhiều vảy trắng + Nấm da mạn với eczema mạn cần chẩn đoấn phân biệt
 
3. Điều trị
 
3.1. Nguyên tắc
 
Phát hiện sớm, điều trị kịp thời để tránh lây lan trong đơn vị rồi mới điều trị.
 
Điều trị phải bôi đúng phác đồ, đủ thời gian, liên tục.
 
Điều trị nấm da 3-4 tuần, nấm móng 3-6 tháng.
 
- Tránh cạo da trước khi bôi thuốc, nếu không dẫn đến dị ứng và nhiễm khuẩn phụ.
 
- khi nấm lây truyền trong tập thể thì phải điều trị hàng loạt, điều trị đột kích
 
- Bôi thuốc đúng nồng dộ thích hợp.
 
- Kết hợp biện pháp VSPB, giặt luộc quần áo phơi nắng, lộn trái khi phơi.
 
-Tránh bôi các thuốc hại da như acid, pin đèn, kiến khoang, tránh thói quen mặc quần áo lót chặt, và không nên dùng đồ sợi nhân tạo.
 
- Điều trị bôi: Cồn BSI 1-3% hoặc cồn ASA 1-3% kết hợp với mỡ benzosali.
 
Đông y: dùng cồn là muồng trâu, lá chút chít, rễ cây bạch hạc 30- 50% điều trị nấm hắc lào có tác dụng.
 
3.2. Nấm kẽ chân
 
- Vị trí bệnh thường thấy xuất hiện ở kẽ ngón đặc biệt hay gặp ở kẽ ngón chân.
 
- Căn nguyên: do các loài Epidermophyton, Trichophyton gây nên. Bệnh hay gặp ở người lội nước, đi giầy tất bí hơi (nấu ăn, công nhân cầu phà, công binh hành quân dã ngoại, vận động viên bơi lội).
 
- Triệu chứng lâm sàng: tổn thương bắt đầu ở giữa kẽ ngón 3-4, (hay gặp nhất ở một số người có cấu tạo giải phẫu ngón 3-4 sít nhau) rồi dần dần lan sang kẽ ngón khác. Tổn thương ban đầu bợt trắng hơi bong vảy, nổi một số mụn nước, ngứa nhiều, gãi trợt da, có nền đỏ, có khi viêm nề, sưng tấy do nhiễm khuẩn thứ phát, khi đó bệnh nhân có thể sốt, hạch bẹn sưng. Nấm có thể lan lên mu bàn chân, xuống mặt dưới bàn chân, đoi khi có mụn nước sâu dạng tổ dỉa ở lòng bàn chân (dị ứng thứ phát).
 
Trường hợp do loài nấm Trichophyton thì tổn thương thường đỏ, róc da ở gót chân, rìa bàn chân, các kẽ chân, và có khi có mụn nước sâu hoặc có tổn thương ở móng, móng sẽ mủn trắng vàng…
 
Cần chú ý chẩn đoán phân biệt với các bệnh da khác: á sừng bàn chân, tổ đỉa thể khô, eczema tiếp xúc…
 
3.3. Nấm lang ben: (Pityriasis versicolor, Malassezia furfure)
 
- Căn nguyên: bệnh do nấm men pityrosporum ovale gây nên. Thường gặp ở người trẻ, thanh thiếu niên. Tổn thương thường bị ở 1/2 người phía trên như ở cổ, vai, ngực, lưng, cánh tay, có khi lan xuống đùi. Tổn thương ban đầu là các chấm, vết hình tròn đường kính 1-2 mm trông giống như bèo tấm, ăn khớp với lỗ chân lông, thường có màu trắng, hồng (nhất là khi đi nắng khi ra mồ hôi thì màu thường đậm hơn, đôi khi có màu nâu. Các thương tổn liên kết với nhau tạo thành các đám có hình vằn vèo, hình bản đồ, giới hạn rõ, khi cạo bong ít vảy cám (dấu hệu vỏ bào).
 
- Triệu chứng cơ năng: ngứa, nhất là khi nóng ra mồ hôi hay đi nắng về, ngứa râm ran.
 
- Tiến triển: hay tái phát do bào tử còn sót lại trong nang lông,ít lây lan.
 
- Cận lâm sàng: Để chẩn đoán xác định cần cạo vảy da xét nghiệm tìm đoạn sợi nấm hay tế bào nấm men.
 
- Chẩn đoán phân biệt: cần chẩn đoán phân biệt nấm lang ben với các bệnh da khác như: bạch biến, á sừng liên cầu dạng vảy phấn,vảy phấn hồng Gibert hay erythrasma
 
3.4. Nấm vẩy rồng
 
Bệnh Tokelau
 
- Căn nguyên: do nấm Trichophyton concentricum hay gặp ở miền núi như ở tây nguyên, Trường Sơn
 
- Triệu chứng lâm sàng: khi nhiễm nấm xuất hiện nhiều vảy da, vảy bám trên nền da bình thường, tổn thương da không viêm, không có mụn nước. Đám da tổn thương có hình tròn đồng tâm, xếp lên nhau như ngói lợp, vảy da mỏng như vỏ khoai tây, một bờ bám vào da, một bờ tự do bay lất phất, tổn thương thường xuất hiện ở lưng, ngực, bụng, cánh tay.
 
- Triệu chứng cơ năng: ngứa nhiều làm mất ngủ dẫn đến suy nhược thần kinh.
 
- Tiến triển: không bao giờ tự khỏi, mang tính địa phương, dễ lây lan trong gia đình, cần phải điều trị kịp thời.
 
- Chẩn đoán cận lâm sàng:cần xét nghiêm vảy da tìm sợi nấm
 
- Chẩn đoán phân biệt: cần chẩn doán phân biệt với bệnh da vảy cá.
 
Điều trị: tắm nước xà phòng cho bở vảy bôi cồn BSI 2% hoặc cồn ASA kết hợp bôi mỡ benzosali và uống Griseofulvin 0,25%x4 viên/ngày x 1 tháng, có thể uống Nizoral hoặc Sporal.
 
3.5. Nấm móng (Onychomycosis)
 
- Căn nguyên: thường do các loài trichophyton hoặc microsporum gây nên.
 
- Vị trí: thường xuất hiện ở móng tay và móng chân.
 
- Triệu chứng lâm sàng: bị một móng sau lan dần ra các móng khác (hàng tháng). Thường bị bắt đầu ở bờ tự do của móng hoặc ở gốc móng ra, khi có đám nấm ở mu bàn tay lan xuống. Tổn thương ban đầu thường có điểm trắng, móng mất độ bóng, điểm trắng đục hoặc hơi vàng to dần, móng trắng mủn hoặc màu vàng mủn ra như ruột sậy. Móng dần dần bị ăn vẹt, xù xì biến dạng, đôi khi tách khỏi nền móng.
 
- Chẩn đoán cận lâm sàng: cần cạo vảy móng đem soi tìm sợi nấm hay bào tử đốt.
 
- Chẩn đoán phân biệt: cần phân biệt với bệnh vảy nến móng, các móng cùng bị một lúc và trên da cũng có tổn thương, vảy nến móng xét nghiệm nấm âm tính. Các bệnh móng khác: viêm quanh móng do vi khuẩn, hoặc bệnh móng do nấm men Candida ( bệnh này thường gây viêm ở quanh chân móng, đôi khi có dịch mủ).
 
Điều trị bảo tồn: khi tổn thương mới ít móng, vẹt ít (1/3 móng) thì tiến hành như sau: Ngâm móng vào nước ấm 40- 50oC, cạo gọt phần mủn đến khi đau rớm máu thì thôi sau đó chấm cồn iốt 10 %, mỡ arievich, hoặc bôi kem Nizoral kết hợp với uống thuốc chống nấm như gricin, sporal. Khi toàn bộ móng nhiễm nấm thì bóc móng bằng phẫu thuật (nhanh gọn nhưng đau, chảy máu, tai biến do phẫu thuật có thể xảy ra, sót sơi nấm lại tái phát) đắp dung dịch ureplast trước 3 ngày rồi bóc không đau, không chảy máu, kết hợp bôi thuốc tại chỗ và uống thuốc chống nấm.
 
+ Uống thuốc: Tháng I Gricin 4 viên/ngày.
 
Tháng II cách nhật.
Tháng II: tuần 2 lần
Tổng liều 220 viên.
 
+ Điều trị nấm móng bằng Spozal Ngày uống 2 viên Spozal 0,1 g x 2 lần/ngày, uống liên tục 7 ngày sau nghỉ 3 tuần uống lặp lại như trên. Nấm móng tay uống 2-3 đợt, nấm móng chân uống 3 hoặc 4 đợt.
 
Chú ý: không nên dùng thuốc chống nấm với người có bệnh gan, thận, phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 6 tuổi.
 
3.6 Nấm tóc
 
3.6.1. Bệnh trứng tóc (hay còn gọi là bệnh tóc hột)
 
Căn nguyên do các loài nấm piedra alba gây trứng tóc trắng, và piedra nigra gây trứng tóc đen. Ở Việt Nam thường gặp loại piedra nigra chủ yếu gây tổn thương ở tóc. Điều kiện thuận lợi để nấm gây bệnh khi để tóc ẩm, như gội đầu ban dêm, đội mũ ngay sau khi gội đầu, hay gặp ở nữ nhiều hơn nam, lây truyền khi dùng chung mũ lược. Khi nhiễm nấm thì dọc theo thân tóc có các hạt nhỏ bằng hạt vừng màu đen bám chặt vào thân tóc. Các hạt nhỏ chính là sợi nấm và bào tử đốt tạo nên rất cứng và chắc làm gãy thân tóc. Nấm lan từ sợi tóc này sang sợi tóc khác.
 
- Triệu chứng cơ năng: không ngứa nhưng làm người bệnh khó chịu.
 
- Chẩn đoán cận lâm sàng: cho sợi tóc vào lam kính có KOH 20% soi kính hiển vi tìm bào tử nấm và sợi nấm.
 
- Điều trị:
 
+ Trứng tóc: gội đầu xà phòng nước ấm,chải mỡ benzosali, hoặc gội đầu xà phòng Sastid, Nizorral hay Kelog.
 
3.6.2. Nấm tóc do microsporum hoặc trichophyton
 
Trên da đầu có các đám đỏ, hình tròn, hình ô van, hay hình rắn bò bong vảy ranh giới rõ, tóc bị phạt gãy cách da đầu 1 vài mm, có khi chỉ còn chấm đen, chân tóc có thể có bự trắng như nhúng trong bột, hay còn gọi chân tóc “đi bít tất” vẩy da thường có màu trắng hay màu trắng xám. Triệu chứng cơ năng: rất ngứa. Bệnh có thể lây từ chó mèo sang người. Thể thâm nhiễm mưng mủ: bị vùng đầu, có các ổ mủ ở nang lông (áp xe nang lông) liên kết thành 1-2 đám viêm mạnh, giới hạn rõ, trên mặt đầy vảy mủ, cạy các vảy ra có các hố lõm có mủ màu vàng, mủ rất hôi, trông giống tổ ong, tóc bị trụi (Kerion de celse).
 
Chẩn đoán cận lâm sàng: xét nghiệm cạo vảy da hoặc nhỏ chân tóc đem soi tìm sợi nấm.
 
Chẩn doán phân biệt: trên lâm sàng cần chẩn đoán phân biệt với các bệnh sau:
 
- Rụng tóc pelade.
 
- Rụng tóc da dầu.
 
- Viêm chân tóc.
 
- Chốc do liên cầu.
 
+ Điều trị: nấm tóc do Trichophyton, Microsporum thì nhổ sợi tóc bệnh, chấm cồn iốt 2%, bôi thuốc màu và uống Grisefoulvin 1g/ngày x 1 tháng, có thể bôi kem Nizoral, Lamisil,Tróyd hoặc uống Nizoral hay Sporal.
 
4. Điều trị và phòng bệnh nấm da
 
4.1. Nguyên tắc
 
Phát hiện sớm, điều trị kịp thời để tránh lây lan trong đơn vị rồi mới điều trị. Điều trị phải bôi đúng phác đồ, đủ thời gian, liên tục. Điều trị nấm da 3-4 tuần, nấm móng 3-6 tháng.
 
-Tránh cạo da trước khi bôi thuốc, nếu không dẫn đến dị ứng và nhiễm khuẩn phụ.
 
- khi nấm lây truyền trong tập thể thì phải điều trị hàng loạt, điều trị đột kích
 
- Bôi thuốc đúng nồng dộ thích hợp.
 
- Kết hợp biện pháp VSPB, giặt luộc quần áo phơi nắng, lộn trái khi phơi.
 
- Tránh bôi các thuốc hại da như acid, pin đèn, kiến khoang, tránh thói quen mặc quần áo lót chặt, và không nên dùng đồ sợi nhân tạo.
 
4.2. Điều trị cụ thể
 
Phác dồ điều trị cục quân y:
 
+ Tuần 1: cồn BSI 2% bôi sáng, chiều, một lần
 
+ Tuần 2: sáng bôi BSI 2%, chiều bôi mỡ benzosali
 
+ Tuần 3: mỡ benzosali bôi ngày một lần cho đến khi khỏi, mịn da.
 
Trường hợp nấm diện rộng, mắc nhiều năm, tái phát nhiều lần, hay do Trichophyton rubrum thì cho uống kháng sinh chống nấm: Griseofulvin 0,25g x 4 viên/ngày x 1 tháng, kết hợp với bôi thuốc như trên.
 
4.3. Phòng bệnh
 
- Phát hiện sớm, điều trị kịp thời để tránh lây lan trong đơn vị nhiều rồi mới điều trị.
 
- Tuyên truyền VSPB, nhắc nhở nếp sống vệ sinh, giữ khô các nếp kẽ, tránh mặc quần áo lót chặt…bằng ni lon, cần cắt móng móng tay, cắt tóc ngắn, giữ khô các nếp kẽ sau khi tắm. Rắc bột phòng nấm, tẩm chất chống nấm vào quần áo….
- See more at: http://phongkhamnamchau.com/benh-nam-da-dau/nam-da-dau-co-lay-khong.html#sthash.rzWMRSdH.dpuf

Thứ Năm, 10 tháng 10, 2013

Đừng để bệnh nấm tóc làm phiền
Da đầu bị nấm, tóc chỗ thưa chỗ dày, lở ngứa…những hậu quả do nấm tóc gây ra luôn khiến cho những ai mắc phải chứng bệnh này chịu nhiều khổ sở.
 

 

 
Nấm da đầu ảnh hưởng rất lớn đến thẩm mỹ và sức khỏe 
 
 
Khởi đầu bằng những nốt sừng sần nhỏ gây ngứa và rụng tóc, sau đó những nốt này lan ra xung quanh tạo thành mảng vảy. Tóc bị nấm trở nên cứng và gãy sát, chân tóc được nhúng trong màu trắng nên người bệnh rất dễ lầm tưởng là gàu.  
 
 
Có nhiều trường hợp, người bệnh do không phát hiện và điều trị kịp thời đã bị bội nhiễm, mụn mủ xung quanh hoặc dọc tóc có hột màu đen hoặc trắng làm gãy tóc, rụng tóc ảnh hưởng rất lớn đến thẩm mỹ và sức khỏe.
 
 
Trẻ em, người lớn  đều có thể bị nấm tóc nhưng trẻ em thường dễ bị mắc hơn bởi nấm tóc có thể lây trực tiếp từ người sang người hay từ các đồ vật sang người. Nguyên nhân cơ bản nhất gây bệnh nấm tóc là do việc giữ vệ sinh kém, tạo điều kiện cho các chủng vi khuẩn Tricophiton, nấm tóc và sừng (Keratin) ký sinh trên tóc, chân tóc… gây bệnh.
 
 
Với những người làm các công việc nặng, tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời, khói bụi… da đầu thoát nhiều mồ  hôi, bám bẩn càng khiến vi khuẩn có điều kiện thuận lợi để sinh sôi và phát triển. 
 
 
Mũ bảo hiểm cũng là một trong những tác nhân quan trọng gây nên chứng nấm tóc (nấm da đầu). Ngoài ra, bệnh nấm tóc cũng có thể do lây trực tiếp giữa người bị nấm tóc truyền sang hoặc có thể lây qua các vật dụng trung gian như lược chải đầu, gối, mũ nón…
 
 
Khi phát hiện các dấu hiệu của bệnh nấm tóc, bệnh nhân không nên cào gãi, chà sát da, gây rách da đầu bởi điều này sẽ làm cho nấm lây nhanh và rộng hơn. Thay vào đó, cần vệ sinh kỹ da tóc, để tóc khô thoáng, tránh đội mũ nón gây ẩm ướt da đầu trước khi tới khám tại các cơ sở chuyên điều trị bệnh ngoài da.
 
 
Trên đây là những giới thiệu cơ bản của các chuyên gia phòng khám đa khoa Năm Châu về ‘‘Đừng để bệnh nấm tóc làm phiền’’. Nếu bạn muốn tìm hiểu thêm hoặc tư vấn về căn bệnh này, bạn có thể chọn Tư vấn online hoặc gọi điện vào số điện thoại: 0439 630 666

Các nguyên nhân gây rụng tóc
Rất nhiều thuốc (như chống đông máu, ức chế u, trị Parkinson, chống động kinh...) có thể gây rụng tóc. Vì vậy, để chẩn đoán nguyên nhân, bác sĩ thường tìm hiểu xem trước đó bệnh nhân có uống thuốc gì không.

 
 

Bệnh rụng tóc do nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra. Nó có thể xuất hiện sau khi bị ốm nặng (sốt rét, lỵ, thương hàn, sốt xuất huyết...), sau sẩy thai, sinh đẻ, sau chấn thương lớn, mất máu. Thường tóc thưa đều, hơi khô, xơ xác, khi cơ thể hồi phục nó sẽ mọc lại.
 
 
Các yếu tố cơ lý hóa (uốn tóc bằng lược, sức nóng, nhuộm, uốn tóc bằng hóa chất, chải tóc quá nhiều bằng lược cứng, căng kéo xoắn bện quá chặt...) cũng làm sợi tóc bị biến dạng, gãy rụng.
 
 
Trong rụng tóc pelade, vùng da đầu có một hay nhiều đám rụng tóc hình tròn, đường kính vài cm, da nhẵn trắng trông giống như sẹo, có khi các đám liên kết thành dải, vằn vèo "thể rắn bò", một số trường hợp có thể rụng nhẵn toàn bộ da đầu, thậm chí rụng cả lông mày, lông nách, lông mi. Loại này thường liên quan yếu tố căng thẳng thần kinh.
 
 
Rụng tóc do nấm (chủng microsporum, trichophyton) khá phổ biến, thường gặp ở trẻ em lứa tuổi học đường, lây từ người sang người do dùng chung lược, mũ hoặc lây từ súc vật (chó, mèo) sang người do ôm, bế. Biểu hiện là da đầu có đám mảng viêm đỏ, có vảy trắng, tóc bị phạt gãy, chân tóc còn lại cách da đầu từ vài mm đến 1-2 cm hoặc chỉ còn chấm đen, có khi chân tóc được bao bởi lớp vảy trắng như bị "nhúng trong bột". Có thể xác định bằng soi nấm, cấy nấm, điều trị bằng bôi kem nizoral, uống ketoconazol.
 
 
Bệnh rụng tóc da dầu (còn gọi rụng tóc liên quan androgen hay chứng hói tiến triển) thường do di truyền và tác động của androgen lên nang tóc ở đầu, làm nang tóc giảm kích thước, dần dần teo và rụng. Loại này gặp ở nam nhiều hơn nữ, nam 30-40 tuổi trở lên, nữ xuất hiện muộn hơn (40% bị ở tuổi 60-70). Đầu tiên, tóc rụng thưa dần ở phía trước trán, tạo thành hình lượn sóng chữ M, sau rụng đến vùng giữa đỉnh đầu và dần dần hói hoàn toàn phía trên (trán và đỉnh chẩm), riêng vùng thái dương hai bên và gáy vẫn còn tóc. Điều trị bằng xịt dung dịch minoxidil và tốt nhất là cấy tóc (hair transplantation). Lấy từng khóm tóc nhỏ vùng thái dương, gáy chẩm của người đó cấy lên vùng rụng tóc.
 
 
Rụng tóc do tật nhổ tóc hay gặp ở trẻ em và người trẻ tuổi, nữ nhiều hơn nam. Họ thường nhổ tóc vùng trán phía trước và hai bên thái dương làm tóc nham nhở không đều, chỗ mọc tốt xen kẽ chỗ thưa. Có khi bệnh nhân bị rối loạn tâm lý, có cảm giác thúc giục không thể cưỡng lại và chỉ nhẹ nhõm sau khi nhổ tóc.
 
 
Người bị giang mai giai đoạn 2 (3 tháng sau khi nhiễm bệnh trở đi) cũng bị rụng tóc kiểu "rừng thưa", tóc rụng nham nhở không đều hai bên thái dương như gián nhấm. Điều trị khỏi bệnh giang mai, tóc sẽ mọc lại.
 
 
Bệnh rụng tóc chuỗi hạt (monilethrix) liên quan đến yếu tố di truyền, gặp cả ở nam và nữ, thường xuất hiện từ nhỏ hoặc tuổi thiếu niên. Thân tóc có đoạn co nhỏ lại, có đoạn dày phình to ra một cách đều đặn tạo thành các nút cục ở tóc, tóc bị gãy đứt đoạn. Da dầu, tóc thưa bị gãy, rụng trông như hói, da đầu phủ đầy tóc ngắn, dày sừng nang lông nên trông xù xì, thô ráp.
 
 
Rụng tóc còn là hậu quả của các bệnh da khác có đám tổn thương ở đầu. Các tổn thương này có quá trình viêm, tạo mủ, tạo sẹo, teo da... gây nên rụng tóc vùng đó, như lupút đỏ mạn dạng đĩa, viêm nang lông trụi tóc, nấm tóc loại kerion, xơ cứng bì khu trú, bệnh muxin nang lông, ung thư tế bào đáy...
 
 
Rụng tóc do nhiều nguyên nhân gây nên. Do đó, khi bị rụng tóc, nên đến khám bác sĩ chuyên khoa da liễu để xác định thể bệnh và có cách điều trị đúng đắn nhất.
- See more at: http://phongkhamnamchau.com/benh-nam-da-dau/cac-nguyen-nhan-gay-rung-toc.html#sthash.dHhUyInA.dpuf

Thứ Tư, 9 tháng 10, 2013

Các bác sĩ của phòng khám Năm Châu cho biết bệnh ghẻ là bệnh ngoài da phổ biến tại Việt Nam. Bệnh do cái ghẻ có tên khoa học là Sarcoptes scabiei gây ra và bệnh rất hay lây. Bệnh lây chủ yếu qua tiếp xúc trực tiếp từ người sang người, một số trường hợp lây qua vật dụng cá nhân hay sinh hoạt hằng ngày.





Ai dễ bị ghẻ?


Bệnh gặp ở mọi lứa tuổi nhưng thường gặp nhất ở trẻ em, người già.

Nhân viên y tế, người sống tập trung, người vô gia cư, người tiếp xúc với người bị ghẻ, người bị bệnh suy giảm miễn dịch, suy kiệt dễ mắc bệnh hơn người bình thường.

Gần đây ghẻ cũng rất thường gặp ở người nghiện ma túy nhiễm HIV/AIDS.

Bệnh ghẻ những dấu hiệu thường gặp


Trung bình 2 – 8 ngày sau khi bị lây, người bệnh có các triệu chứng: ngứa và phát ban ngoài da.

Ngứa:

· Thường ngứa nhiều về đêm

· Ngứa nhiều ở vùng da non

· Nhiều người xung quanh bị ngứa

· Mức độ ngứa tùy mỗi người

Phát ban ngoài da:

Rãnh ghẻ: là đường hầm do cái ghẻ đào dưới da, dài vài mm, thường ở kẽ ngón tay. Tuy nhiên, rãnh ghẻ rất ít gặp.

Mụn nước: gặp trong 100% trường hợp. Vị trí đa số ở vùng da non như kẽ ngón tay, mặt trước cổ tay, nách, quanh rốn, mặt trong đùi, bộ phận sinh dục ngoài, mông.

Sần cục: là những cục cứng ở da, ngứa, vị trí ở nách hay bìu. Thường gặp ở trẻ em

Tổn thương da khác như nổi mề đay,vết trầy sướt do gãi…

Vị trí đa số ở vùng da non như kẽ ngón tay, mặt trước cổ tay, nách, quanh rốn, mặt trong đùi, bộ phận sinh dục ngoài, mông.Không có ở mặt trừ trường hợp ghẻ ở trẻ nhỏ hoặc ghẻ Na-Uy.

Bệnh rất lây nên có nhiều người xung quanh cùng mắc bệnh

Biến chứng khi không điều trị

Nhiễm trùng ở những tổn thương ghẻ do tay dơ sờ mó hoặc cào gãi, vệ sinh kém.

Tổn thương ghẻ có thể chảy nước, lan rộng nằm trên vùng da màu hồng, rất ngứa gọi là hiện tượng chàm hóa.

Tổn thương thận: do độc tố của ghẻ hoặc do vi trùng.

Làm gì khi nghi ngờ bị ghẻ?


-Phải đến Bác sĩ da liễu khám và điều trị bệnh ghẻ ngay tránh lây lan cho người khác.

-Không được tự mua thuốc bôi bừa bãi nhất là thuốc có chứa corticoids.

-Điều trị cả người xung quanh nếu cũng bị mắc bệnh tránh bị lây lại.

- Bôi thuốc đúng cách

- Vệ sinh quần áo và vật dụng cá nhân.

Cách bôi thuốc trị ghẻ


-Tắm và chà xà bông khắp người, chú ý các nếp. Sau đó lau thật khô.

-Bôi thuốc khắp người từ cổ xuống (trừ mặt). Bôi một lần vào buổi tối và chỉ tắm lại sau 24 giờ.

-Mặc quần áo sạch.

-Tắm lại sau 24 giờ.

-Tùy theo loại thuốc có thể bôi một lần duy nhất hoặc bôi từ 2 – 3 lần.

Vệ sinh cá nhân

-Vệ sinh cá nhân mỗi ngày

- Nếu bị ghẻ: cần tránh tiếp xúc với người xung quanh, dùng vật dụng sinh hoạt riêng, ngủ riêng và đi khám ngay để được điều trị sớm tránh biến chứng và lây lan cho người khác.

-Vệ sinh quần áo và vật dụng cá nhân bằng cách luộc trong nước > 60 độ C hoặc luộc quần áo, đồ dùng cá nhân với nước sôi trong 15 phút để tránh lây lan và mắc bệnh lại.

- Để quần áo không mặc trong tủ 1 tuần sau mới mặc.

Trên đây là những tóm tắt về " Bệnh ghẻ là gì?" Nếu bạn vẫn còn những thắc mắc có thể nhận tư vấn trực tiếp với các chuyên gia Phòng khám đa khoa Năm Châu của chúng tôi. Ngoài ra, đăng ký qua mạng có thể được miễn phí đăng ký và được ưu tiên sắp xếp bác sĩ khám bệnh. Bạn cũng có thể gọi điện đến đường dây nóng: 043-9630666  hoặc nhận tư vấn online.

Chúc bạn sức khỏe! 
- See more at: http://phongkhamnamchau.com/benh-ghe/benh-ghe-co-nguy-hiem-khong.html#sthash.HWUTyasa.dpuf

Ghẻ là bệnh có tần suất xuất hiện nhiều ở các vùng mà điều kiện vệ sinh thấp kém, tập quán sinh hoạt lạc hậu. Bệnh lây lan nhanh do ký sinh trùng ghẻ lan truyền từ người này sang người khác qua tiếp xúc, dùng chung quần áo, giường chiếu, chăn, màn. Bệnh phát triển nhiều vào mùa đông, tuy không để lại hậu quả nặng nề, song nó cũng ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng cuộc sống.


Đôi nét về ký sinh trùng ghẻ

Hình bầu dục, ghẻ cái dài 0,3 – 0,5mm, màu trắng bẩn; có 4 đôi chân, hai đôi chân trước có kèm theo các ống giác để hút, hai đôi chân sau có các sợi lông dài để di động. Ký sinh trùng ghẻ đào hang ở lớp sừng, đẻ trứng, qua chu kỳ hơn 20 ngày thành ký sinh trùng ghẻ. Sinh sản nhanh trong điều kiện thuận lợi , sau 3 tháng một ký sinh trùng ghẻ cái có thể sinh sản ra một dòng họ 150 triệu con.

Biểu hiện của bệnh ghẻ

Giai đoạn ban đầu: Ngứa là triệu chứng chính, làm bệnh nhân không thể chịu được và đi khám bệnh. Thường xuất hiện sau khi lây bệnh khoảng một tuần, ngứa ít về ban ngày, ngứa nhiều về đêm.

Giai đoạn về sau: Khi các thương tổn đã xuất hiện đầy đủ sẽ bao gồm:

Vị trí tổn thương đặc hiệu: Kẽ ngón tay, ngấn cổ tay, cùi tay, bờ trước nách, quanh rốn, nếp lằn mông, chân, sinh dục ngoài... ở nam giới cần chú ý ở bao quy đầu, ở nữ giới cần chú ý ở vú, nhất là quanh núm vú, ở trẻ em cần chú ý đến lòng bàn chân.

Con ghẻ và những tổn thương trên da.

Tổn thương cơ bản: Là những đường hang ngoằn ngoèo, hình chữ chi, màu trắng xám, dài vài mm, không liên quan đến lớp biểu bì. Đầu đường hang là mụn nước 1 - 2 mm, ký sinh trùng ghẻ thường cư trú ở đây.

Ngoài ra cần chú ý đến các tổn thương khác như: vết gãi, vết xước da, vết trợt vấy tiết, sẹo thẫm màu.

Đặc biệt nếu có sự lây lan trong tập thể, khêu bắt được cái ghẻ, nạo luống ghẻ, mụn nước soi kính thì chẩn đoán chính xác là bệnh ghẻ.

Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là nếu không được điều trị mà để bệnh kéo dài có thể gây ra những biến chứng như ghẻ nhiễm khuẩn (ngoài các biểu hiện nêu trên còn có thêm các mụn mủ xuất hiện), ghẻ viêm da hóa (bên cạnh các biểu hiện của bệnh ghẻ còn có các tổn thương khác; đó là đám viêm da đỏ, 15 - 20cm đường kính, trên nền đỏ rải rác có mụn nước, vết trợt, khô hoặc chảy dịch, ngứa. Nếu không được điều trị tốt đám viêm da lâu ngày sẽ dẫn đến eczema) và ghẻ nhiễm khuẩn có biến chứng viêm cầu thận cấp là biến chứng nguy hiểm nhất.

Điều trị bệnh ghẻ

Nguyên tắc điều trị bệnh ghẻ

Phát hiện sớm, điều trị sớm đủ thời gian.

Điều trị cùng một lúc cả người bệnh lẫn người liên quan.

Bôi thuốc vào buổi tối, bôi trước khi đi ngủ, bôi như bôi dầu bóng, bôi 3 ngày liền mới tắm giặt thay quần áo.
Không dùng các thuốc độc cho cơ thể để chữa ghẻ.

Tránh cào gãi, chà xát.

Tại chỗ: Dùng một trong các thuốc trị ghẻ sau.

Dầu DEP (DiEthylPhtalat): Là chất lỏng, không màu, không mùi, sánh, không gây kích thích da và không bẩn quần áo. Cần chú ý chỉ bôi lên thương tổn, không bôi diện rộng, không bôi lên niêm mạc, không để dây vào mắt. Bôi lên các tổn thương ghẻ mỗi ngày 2 – 3 lần, bôi cả ban đêm, ngày thứ 3 tắm bằng xà phòng và nước nóng, thay quần áo.

Bôi thuốc điều trị bệnh ghẻ.

Mỡ diêm sinh: 10% cho trẻ em, 30% cho người lớn, sau khi tắm xong, lau khô, bôi thuốc mỡ trên vùng da bị ghẻ, khoảng 24 giờ sau bôi lần thứ hai, ngày thứ 3 tắm bằng xà phòng và nước nóng, thay quần áo.

Dầu Benzyl benzoat 33%: Không cần thiết phải tắm trước, bôi lên tổn thương trừ vùng đầu và mặt, 20 phút sau bôi thêm lần nữa, ngoài ra có thể bôi thêm sau 24 giờ. Ngày thứ 3 tắm bằng xà phòng và nước nóng, thay quần áo. Tiếp tục điều trị theo trình tự trên cho đến khi lành bệnh.

Kem Eurax trị ghẻ và sẩn ngứa: Thuốc có tác dụng chống ngứa, diệt cái ghẻ, chấy. Liều dùng: Ngứa bôi 2 - 3 lần/ngày, ghẻ bôi 1 lần vào buổi tối trong 2 - 3 ngày; chỉ bôi một lần mỏng, có thể tắm trước khi bôi; không được dùng khi bệnh ngoài da có chảy nước, mẫn cảm... Không nên dùng cho người mang thai, không bôi vào vùng núm vú và vùng xung quanh, không dùng cho trẻ dưới 30 tháng tuổi.

Nếu dùng dung dịch hoặc kem Kwell, chỉ cần bôi 1 - 2 lần.

Trong trường hợp ghẻ nhiễm khuẩn phải bôi thêm các thuốc màu, ghẻ viêm da hóa phải điều trị thêm vùng viêm da.

Bên cạnh các thuốc dùng tại chỗ nêu trên, cần dùng thêm các thuốc toàn thân khác như kháng histamin, vitamin B, C...

Điều trị bằng đông y có thể cho bệnh nhân tắm lá đắng, lá ba gạc, lá đào, lá xoan..., bôi dầu hạt máu chó.

Dù là phương pháp điều trị nào, để tránh tái phát, phải điều trị cùng một lúc cả người bệnh và người sống chung trong gia đình, người ngủ chung một giường. Quần áo chăn màn phải được giặt và luộc sôi. Khi có một đợt dịch lây lan nhiều cần tẩy uế quần áo, chăn màn bằng cách dùng DDT rắc vào quần áo, đậy kín trong 48 giờ, sau đó đem giặt kỹ rồi mới dùng lại.
- See more at: http://phongkhamnamchau.com/benh-ghe/benh-ghe-va-thuoc-dieu-tri.html#sthash.S7YjIIFN.dpuf
Design by Hao Tran | Blogger Theme by Sức khỏe sinh sản -